Chỉ cần thiết khi mạng xã hội có chức năng mua bán chuyên nghiệp

Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), trên cơ sở ý kiến của DN và chuyên gia vừa góp ý vào Dự thảo hồ sơ đề nghị xây dựng Nghị định sửa đổi Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử.

VCCI đánh giá cao chính sách nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính trong đề xuất của cơ quan soạn thảo, như thu hẹp đối tượng phải thực hiện thủ tục thông báo website, ứng dụng thương mại điện tử bán hàng.

Tuy nhiên, về thủ tục thông báo với website thương mại điện tử bán hàng, VCCI cho rằng, các thương nhân đã phải thực hiện các thủ tục đăng ký với Nhà nước trước khi bắt đầu kinh doanh. Việc thương nhân khi triển khai thêm một kênh bán hàng trên internet phải thực hiện thêm thủ tục thông báo vô hình trung tạo ra gánh nặng hành chính không cần thiết.

VCCI đồng tình với mục tiêu của chính sách áp dụng các biện pháp để quản lý hàng giả, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ và hàng kém chất lượng là cần thiết để bảo vệ người tiêu dùng. Nhưng, về những thông tin bắt buộc mà người bán phải có khi bán hàng trên sàn thương mại điện tử, quy định này cần cân bằng giữa quyền được cung cấp thông tin của người tiêu dùng và khả năng thực hiện của người bán, DN cung cấp dịch vụ sàn thương mại điện tử.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Dự thảo hiện đang đề xuất hai phương án. Phương án 1 yêu cầu sàn thương mại điện tử phải thu thập những thông tin về người bán (tên, địa chỉ; giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc mã số thuế cá nhân; phương thức liên lạc) và công khai lên gian hàng của người bán.

Theo VCCI, quy định này là chưa phù hợp và làm khó cho các sàn thương mại điện tử do việc công khai những thông tin như vậy (đặc biệt là số điện thoại hoặc địa chỉ) có thể khiến người bán và người mua “lách” các quy định của sàn, tự liên lạc để giao dịch với nhau, dẫn đến gây thiệt hại cho các sàn thương mại điện tử.

Phương án 2 chỉ quy định công khai thông tin với nhóm hàng hóa thuộc lĩnh vực kinh doanh có điều kiện. Quy định này theo VCCI cũng không hợp lý do các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện áp đặt điều kiện cho chủ thể kinh doanh, mà không phải cho bản thân hàng hóa, dịch vụ đang được trưng bày, giới thiệu. Do đó người tiêu dùng sẽ có thể vẫn thiếu thông tin khi xem xét mua hàng hóa, dịch vụ.

Giao dịch trên nền tảng thương mại điện tử, về bản chất, cũng là việc mua sắm hàng hóa, dịch vụ. Do vậy, các thông tin được công khai trên sàn nên tương đương với các thông tin mà người tiêu dùng có thể tiếp cận được khi mua sắm trực tiếp. VCCI đề nghị quy định theo hướng các thông tin bắt buộc người bán phải có là các thông tin được ghi trên nhãn hàng hóa của sản phẩm, dịch vụ (ngoại trừ những thông tin mang tính biến động theo từng sản phẩm, chẳng hạn như thông tin về số khung và số vin của sản phẩm ô tô, xe máy).

Bên cạnh đó, quy định về trách nhiệm của chủ sàn thương mại điện tử phải báo cáo trong vòng 24g với việc xử lý hàng hóa, dịch vụ vi phạm cũng chưa hợp lý. Theo phản ánh của nhiều DN, yêu cầu này không khả thi. Việc xử lý hàng hóa, dịch vụ vi phạm là công việc thường xuyên của các sàn thương mại điện tử và có lẽ không cần phải báo cáo cơ quan Nhà nước một cách thường xuyên, mà chỉ cần lưu trữ hồ sơ để chuẩn bị khi thanh kiểm tra.

VCCI đồng tình rằng vấn đề hàng giả, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ và hàng kém chất lượng trên mạng xã hội cần phải được quản lý, do đó việc quy định trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ cơ quan quản lý Nhà nước trong việc rà soát, gỡ bỏ thông tin hàng hóa/dịch vụ vi phạm của các mạng xã hội là cần thiết.

Tuy nhiên, ngoài quy định này, Dự thảo đang đề xuất phương thức quản lý hoạt động thương mại điện tử trên mạng xã hội tương đương với phương thức quản lý với các sàn thương mại điện tử. Chính sách này chưa thực sự hợp lý. Vì mạng xã hội, với khả năng kết nối và chia sẻ thông tin, cho phép người dùng có thể đăng tải, chia sẻ thông tin và tương tác với người dùng khác. Vì vậy, mạng xã hội được một bộ phận người dùng sử dụng cho mục đích giới thiệu, quảng bá hàng hóa, dịch vụ và tương tác với khách hàng.

Mặc dù vậy, khác với các sàn thương mại điện tử, đây là vấn đề tự phát giữa các người dùng trong mạng xã hội. Nhiều mạng xã hội không tham gia vào quá trình giao dịch giữa người bán và người mua, không yêu cầu người bán và người mua phải thực hiện giao dịch trên nền tảng của mình… Nói cách khác, nhiều mạng xã hội chỉ đơn thuần được sử dụng như một kênh quảng cáo, tiếp thị sản phẩm.

Trong khi đó, Đề cương Dự thảo quy định mạng xã hội cho phép người dùng được mở gian hàng hoặc đăng tin cung cấp dịch vụ hoặc có chuyên mục mua bán thì được coi là sàn thương mại điện tử và phải thực hiện các nghĩa vụ tương tự sàn thương mại điện tử. Khi đó, gần như mọi mạng xã hội, dù không chủ động tham gia vào lĩnh vực thương mại điện tử, cũng sẽ thuộc đối tượng điều chỉnh của Nghị định.

Theo VCCI, việc quản lý mạng xã hội như sàn thương mại điện tử chỉ thực sự cần thiết khi các mạng xã hội có chức năng mua bán chuyên nghiệp (có chức năng đặt hàng trực tuyến và/hoặc hỗ trợ thanh toán, chuyển phát). Do vậy, cần thu hẹp phạm vi quản lý hoạt động mạng xã hội theo hướng chỉ áp dụng với các mạng xã hội có chức năng đặt hàng trực tuyến và/hoặc hỗ trợ thanh toán, chuyển phát. Việc quản lý hoạt động thương mại điện tử với các mạng xã hội khác chỉ tập trung vào trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ cơ quan quản lý Nhà nước trong việc rà soát, gỡ bỏ thông tin hàng hóa/dịch vụ vi phạm.

Phương Thảo

Nguồn PL&XH: https://phapluatxahoi.vn/chi-can-thiet-khi-mang-xa-hoi-co-chuc-nang-mua-ban-chuyen-nghiep-203720.html