Các nền kinh tế ASEAN hướng đến năm 2026 với xung lực xuất khẩu mạnh mẽ
Nền kinh tế Đông Nam Á (ASEAN) đang chuẩn bị bước sang năm mới với xung lực mạnh mẽ nhờ làn sóng tăng trưởng xuất khẩu đưới sự thúc đẩy của trí tuệ nhân tạo (AI) và sự ổn định tiền tệ khi dù những rủi ro của toàn cầu đối với khu vực vẫn hiện hữu.

Tăng trưởng xuất khẩu của các nền kinh tế lớn của ASEAN bao gồm Singapore, Việt Nam, Philippines, Indonesia, Thái Lan mạnh dần lên trong nửa cuối năm 2025. Anh: Business Times
Những lo ngại ban đầu của nhà đầu tư về việc xuất khẩu và tăng trưởng của ASEAN sẽ chậm lại đáng kể do thuế quan thương mại của Mỹ trong năm 2025 đã không thành hiện thực. Thay vào đó, các nền kinh tế trong khu vực – đặc biệt là Malaysia và Singapore – ghi nhận sự tăng trưởng và hoạt động mạnh mẽ cho đến cuối năm. Có 3 yếu tố đã dẫn đến bước ngoặt tích cực đáng ngạc nhiên này đối với các nền kinh tế ASEAN.
Sức mạnh bền bỉ của xuất khẩu
Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy việc tái cấu trúc chuỗi cung ứng đang thúc đẩy thương mại nội khối và mang lại lợi ích lớn cho xuất khẩu ASEAN. Động lực này nổi bật nhất ở những quốc gia đang được kết nối với chuỗi cung ứng AI và điện tử.
Ví dụ điển hình là Malaysia và Singapore đều chứng kiến xuất khẩu tăng vọt, dẫn đầu bởi lĩnh vực điện tử và bán dẫn. Nhu cầu chi tiêu vốn toàn cầu cho AI không ngừng tang, tạo ra hiệu ứng lan tỏa, kích thích nhu cầu mạnh mẽ dọc theo toàn bộ chuỗi giá trị điện tử.
Sự ổn định của tiền tệ
Yếu tố thứ hai đang hỗ trợ nền kinh tế ASEAN là sức mạnh của các đồng tiền trong khu vực. Đầu năm, có nhiều lo ngại rằng thuế quan cao của Mỹ đối với Trung Quốc và ASEAN sẽ gây ra sự sụt giảm xuất khẩu trên toàn khu vực. Điều này có thể dẫn đến sự tăng giá mạnh của đồng đô la Mỹ hoặc tệ hơn nữa là đồng nhân dân tệ và các đồng tiền khu vực đồng loạt mất giá.
Thực tế lại lại hoàn toàn khác. Hiệu suất xuất khẩu ấn tượng đã nâng đỡ các đồng tiền khu vực do do nền kinh tế ASEAN có tỷ trọng xuất khẩu lớn. Bên cạnh đó, xu hướng phi đô la hóa trên toàn cầu cũng hỗ trợ các đồng tiền của ASEAN.
Đồng ringgit Malaysia tăng hơn 9% so với đô la trong năm nay, trở thành đồng tiền có hiệu suất tốt nhất châu Á.
Doanh thu xuất khẩu mạnh mẽ cùng với việc nhu cầu tích lũy đô la Mỹ trên toàn cầu giảm đi đã dẫn đến sự tăng giá của các đồng tiền trong khu vực khi các nhà xuất khẩu tích cực chuyển doanh thu xuất khẩu về nước.
Ngoài ra, các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc cũng không chọn cách phản ứng với thuế quan cao hơn bằng cách phá giá đồng nhân dân tệ. Thay vào đó, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC) chủ động quản lý áp lực giảm giá đối với đồng nhân dân tệ, cho phép đồng tiền tăng giá cùng với sự suy yếu của đô la. Điều này giúp loại bỏ một nguồn biến động tiền tệ chính cho khu vực Đông Nam Á.
Lạm phát được kiểm soát
Nhà đầu cũng lo ngại rằng thuế quan thương mại cao hơn sẽ làm tăng lạm phát toàn cầu. Tuy nhiên, chuỗi cung ứng trong nhiều ngành công nghiệp đã chứng tỏ linh hoạt hơn dự kiến, với nhiều khâu trung gian giúp hấp thụ thuế quan. Điều này có nghĩa là việc chuyển giá cao hơn đến người tiêu dùng cuối cùng bị hạn chế.
Các đồng tiền mạnh trên khắp ASEAN cũng làm tăng sức mua, giúp kiềm chế lạm phát nhập khẩu. Hơn nữa, dòng chảy hàng hóa và dịch vụ có giá cạnh tranh từ Trung Quốc đã giúp giảm chi phí sản xuất, giữ lạm phát ở các mức thấp trên khắp các nền kinh tế ASEAN.
Vẫn đối mặt nhiều thách thức
Dù chống chịu tốt bất ổn thương mại trong năm 2025, ASEAN vẫn tiếp tục đối mặt nhiều thách thức trong năm tới. Trong nội khối ASEAN, những rủi ro đặc thù vẫn tồn tại. Một số nền kinh tế khu vực chưa “bắt sóng” với cơn bùng nổ AI và chu kỳ đổi mới điện tử sẽ phải nỗ lực để bắt kịp
Trong khi hầu hết đồng tiền khu vực tăng giá tốt, tiền đồng của Việt Nam và rupiah của Indonesia vẫn yếu. Đặc biệt, sự suy yếu của rupiah là lý do chính khiến Ngân hàng trung ương Indonesia thận trọng chưa cắt giảm lãi suất them giữa lúc chính phủ của Tổng thống Prabowo Subianto vẫn tập trung vào các gói kích thích để đẩy tăng trưởng đắt nước vượt mốc 5% hiện tại.
Trong khi đó, Thái Lan đang đối mặt nguy cơ giảm phát kéo dài, với chỉ số giá tiêu dung trong tháng Mười giảm 0,76%, tiếp nối mức giảm 0,72% trong tháng Chín. Xu hướng này xuất phát từ nguồn cung dồi dào và nhu cầu nội địa yếu.
Tăng trưởng GDP Thái Lan cũng yếu hơn dự báo, chỉ tăng hàng năm 1,2% trong quí 3, giảm từ mức tăng 2,8% trong quí 2. Cả hoạt động sản xuất và xây dựng ở nền kinh tế lớn thứ hai ASEAN đều rơi vào vùng suy giảm, trong khi du lịch phục hồi vẫn ì ạch.
Bên ngoài khu vực, triển vọng chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) vẫn chưa chắc chắn. Nội bộ Fed đang chia rẻ ngày càng lớn về việc có cần duy trì cắt giảm lãi suất sang năm 2026 hay không.
Một nguồn bất ổn khác là sự thay đổi lãnh đạo của Fed sau khi nhiệm kỳ của Chủ tịch Jerome Powell kết thúc vào tháng 5-2026.
Ở những nơi khác, các nền kinh tế lớn cũng đối mặt với sự bất ổn và rủi ro ngày càng tăng.
Trên khắp châu Âu, tăng trưởng và triển vọng tài chính vẫn đang biến động thất thường trong bối cảnh Liên minh châu Âu (EU) cùng Mỹ đang nỗ lực thúc đẩy một thỏa thuận hòa bình khó khăn giữa Nga và Ukraine.
Ngân hàng trung ương Nhật Bản đang vật lộn với sự gia tăng mạnh hơn nữa của lợi suất trái phiếu chính phủ dài hạn khi Thủ tướng Sanae Takaichi thúc đẩy các biện pháp kích thích tài khóa.
Cuối cùng, triển vọng phục hồi của Trung Quốc vẫn còn nhiều thách thức. Tăng trưởng GDP của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới có khả năng sẽ chậm lại, giảm từ 4,8% trong quí 3 xuống còn 4,4% trong quí 4.
Theo Business Times














