Ba triều dựng nước (Ngô - Đinh - Tiền Lê) - (Tập II - Kỳ 43)

Trân trọng giới thiệu tiếp chương I - Tập II ' BA TRIỀU DỰNG NƯỚC (NGÔ - ĐINH - TIỀN LÊ)' trong bộ Tiểu thuyết Lịch sử 'Việt Nam Diễn Nghĩa' của PGS TS Cao Văn Liên do NXB Hồng Đức- Hà Nội ấn hành năm 2019.

Tranh minh họa: Vua Lê Đại Hành tên thật là Lê Hoàn, sinh năm 941 ở Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Ông là vị vua lập nên nhà Tiền Lê và trị nước được 24 năm (980- 1005). Nhà Tiền Lê, kinh đô Hoa Lư tồn tại 29 năm (980 - 1009).

Kỳ 43
Trong khi đó Lưu Trừng thuận buồm xuôi gió, tinh thần phấn chấn do chiến thắng trong trận chiến Bạch Đằng, liền từ Bạch Đằng vượt sông Kinh Thầy tiến về Lục Đầu Giang. Lưu Trừng nhớ lại rất nhiều lần quân Hán đã thắng lợi ở Lục Đầu Giang do kết hợp bộ binh và thủy binh đánh tập hậu. Lưu Trừng ra lệnh cho thuyền ghé vào bờ, cho một vạn quân do Vương Soạn chỉ huy đổ bộ lên và đi bộ đến Lục Đầu Giang đánh bộ binh Việt ở phía Đông, còn một vạn quân đi thuyền tiếp đổ bộ đánh ở phía Tây, kẹp quân Việt vào giữa mà tiêu diệt. Thuyền quân Tống tiến vào Sông Lục Đầu, đã thấy đầu sông giáp với sông Cầu, những bè chất cháy của quân Việt đã dàn hàng ngang chắn lối vào, phía sau không xa là Thủy quân Việt dàn thế trận chờ sẵn. Thủy quân Tống tiến thoái lưỡng nan, tiến lên thì bị hỏa công tiêu diệt, khi đó đang là mùa đông, gió mùa đông bắc rất mạnh. Đúng như dự đoán của Lưu Trừng, các bè hỏa công đã phát hỏa như những núi lửa cháy dữ dội, khói bốc mù mịt lưng trời theo gió đang trôi về chiến thuyền quân Tống. Đi sau các bè lửa là thủy quân Đại Cồ Việt. Hai bên gần bờ Lục Đầu Giang, chiêng trống, tù và vang động, các thuyền nhỏ của dân binh và của dân chài đang di động dày đặc ven bờ chuẩn bị tấn công quân Tống hỗ trợ cho thủy quân. Lưu Trừng hốt hoảng ra lệnh chèo cật lực, dương cả buồm lên chạy thật nhanh một mạch ra sông Kinh Thầy và về sông Bạch Đằng. Đạo thủy binh đi bộ của quân Tống đi đến bãi Kiếp Bạc bị quân của Phùng Thường, Đào Trực mai phục đổ ra chặn đánh. Phía sau quân Tống lại bị dân binh các làng đổ ra chém giết. Quân Tống chết theo đủ kiểu: Trúng tên, bị chặt cụt đầu, bị đâm, máu chảy như suối tràn xuống đỏ ngầu Lục Đầu Giang, 1 vạn tên thịt nát máu phun không một tên nào sống sót. Tướng giặc Vương Soạn cũng tử trận.

Lưu Trừng đang rút chạy, chợt nghe âm thanh cuộc chiến trên bờ vọng xuống, tiếng la hết kinh hoàng của quân Tống, tiếng thanh la chiêng trống rung trời của quân Việt. Lưu Trừng ngửa mặt lên trời kêu lên:

-Ta đã đẩy 1 vạn con người vào đất chết rồi!

Một tùy tướng đứng cạnh nói:

-Không phải tướng quân đẩy họ vào chỗ chết mà chính Tri Ung Châu Hầu Nhân Bảo xúi hoàng thượng. Ai bảo Hầu Nhân Bảo dâng sớ xin hoàng thượng đánh Đại Cồ Việt.Mạt tướng và tướng quân , kể cả Hầu Nhân Bảo chắc gì được sống sót trở về mà có về cũng bị tù ngục mà chết do chiến bại.

Lưu Trừng như mở mắt ra:

-Nhà ngươi nói đúng. Tri Ung Châu Hầu Nhân Bảo thật đáng ghét. Chúng ta chết thật rồi.

Từ đó Lưu Trừng và các tùy tướng lâm vào một tâm trạng lo lắng buồn rầu cho một tương lai đen tối của cuộc đời những tên tướng viễn chinh.

Lại nói Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đem 2 vạn quân tiến vào Lạng Châu. Quân Tống tiến xuống đầu đạo Vũ Ninh thì dừng lại, chờ thủy quân tiến vào sông Cầu chở bộ binh vượt sông như đã định. Chờ mãi mà không thấy thám mã báo tin gì, Hầu Nhân Bảo sợ nếu chiến tranh kéo dài thì sẽ thất bại vì lương thực có hạn, quân số bị dân binh của Đại Cồ Việt tiêu hao. Hầu Nhân Bảo bàn với phó tướng là Tôn Toàn Hưng:

-Ta cứ đem quân xuống bờ Bắc sông Cầu rồi tính sau.

Tôn Toàn Hưng nói:

-Thưa chủ soái, xuống bờ Bắc sông Cầu mà không có thuyền thì tính sao?

-Phép hành quân gặp núi thì mở núi, gặp sông phải bắc cầu.Ta cứ xuống xem địa thế sông thế nào, có thể có chỗ nông lội qua được. Chờ ở đây lương thực sắp hết. Tướng quân có gánh nổi trách nhiệm không?

-Mạt tướng không dám.

Liền đốc thúc ba vạn quân tiến xuống. Chu Vị Công đi tiên phong, Hầu Nhân Bảo đi trung quân, Tôn Toàn Hưng đi hậu quân. Đến Hoa Bộ là một thung lũng hẹp, phía Đông là vách núi, phía Tây là rừng rậm, quân Tống hầu hết đã lọt vào thung lũng. Thốt nhiên, những hồi chiêng trống vang lên kèm theo những trận mưa tên từ rừng phía Tây và sườn núi phía Đông. Hàng nghìn quân Tống gục xuống ngay loạt tên đầu. Có tiếng kêu:

-Quân ta bị mai phục.

-Quân ta bị mai phục.

Tướng Chu Vị Công đi tiên phong trúng tên ngã ngựa chết. Hầu Nhân Bảo cuống cuồng quay ngựa định tháo chạy về phương Bắc nhưng ba vạn quân hỗn loạn, xác chồng chất lấp kín đường không thể chạy được. Trong khi đó quân Việt từ Đông Tây hai bên kéo xuống chém giết. Phạm Cự Lượng xông ngay vào người đang cuống cuồng trên lưng ngựa, trên đầu có lá cờ đề chữ “Soái” đưa một đại đao qua cổ. Đó chính là Hầu Nhân Bảo. Hầu Nhân Bảo thây phun máu đổ vật xuống đường. Quân Việt reo hò băm 2 vạn quân Tống thành những đống thịt đầy máu. Tôn Toàn Hưng nhờ đi hậu quân không sâu vào trận địa nên quay ngựa kịp chạy thoát, dẫn tàn quân chạy một mạch về biên giới. Khi vượt khỏi biến giới mới đi chậm lại để thở. Một tùy tướng nói:

-Chủ soái Hầu Nhân Bảo đã tử trần.

Tôn Toàn Hưng nói:

-Ai bắt ngài ta đang yên đang lành lại xin hoàng thượng đánh Đại Cồ Việt, không biết Lê Hoàn là tay đại anh hùng, đã cùng Đinh Bộ Lĩnh đánh Đông dẹp Bắc, chỉ hai năm là Đại Cồ Việt thống nhất. Cho ông ta chết cũng đáng đời.

Rồi tên tướng bại trận dẫn tàn binh mệt mỏi đi về Ung Châu trong một chiều mùa đông ảm đạm. Hoàng hôn đỏ tím trời Tây một màu máu.

Nghe tin đạo bộ binh bị quân Đại Cồ Việt tiêu diệt, Chủ soái Hầu Nhân Bảo bị giết, Tôn Toàn Hưng thoát chết đã tháo chạy về nước, Lưu Trừng cả sợ giương buồm cho thủy binh rút nhanh về Quảng Đông. Trần Khâm Tộ nghe tin cũng vội vã bỏ Tây Kết tháo chạy đường bộ, vì chiến thuyền đã bị dân binh đốt cháy trong khi quân Tống rời thuyền lên bộ tác chiến. Lê Đại Hành ra lệnh cho tất cả quân các đạo truy kích cùng quân triều đình. Quân Tống chạy không kịp bị chết quá nửa, thây nằm đầy đường. Các tướng Triệu Phụng Huân, Quách Quân Biện bị bắt, tướng Chu Vi Công tử trận, các tướng Lưu Trừng, Gia Thực chạy thoát về nước nhưng bị Tống Thái Tông chặt đầu bêu ở chợ Ung Châu, Thôi Lượng bị giáng chức. Sau chiến thắng, Lê Đại Hành cùng các tướng ca khúc ca khải hoàn trở về kinh đô Hoa Lư. Lê Đại Hành cho cả nước ăn mừng chiến thắng, ban lệnh đại xá thiên hạ. Đó là niên hiệu Thiên Phúc năm thứ hai, 981.Cùng năm đó Lê Đại Hành thấy phải cho Dương Vân Nga, một người phụ nữ hy sinh quyền lợi riêng tư vì đất nước một danh phận. Từ là hoàng hậu, rồi lên hoàng thái hậu. Sau khi vệ Vương Đinh Toàn nhường ngôi cho Lê Đại Hành thì bà không còn danh phận gì cả. Vì thế, sau khi được sự đồng ý của Dương Vân Nga, Lê Đại Hành kết hôn với bà và phong bà làm hoàng hậu. Tiệc cưới của Lê Đại Hành và Dương Vân Nga diễn sau lễ ăn mừng đại thắng ngoại xâm đã mang lại một niềm vui lớn cho Triều đình, cho đất nước.Sau chiến thắng quân Tống, uy danh của Lê Đại Hành chấn động Đại Cồ Việt, chấn động cả Biện Kinh của nhà Tống. Năm 986 Tống Thái Tông buộc phải công nhận Lê Đại Hành là người cai trị Đại Cồ Việt. Bản sắc phong cho Lê Đại Hành một năm hai lần, nhiều lần cử sứ giả sang Hoa Lư giao thiệp và gần 100 năm sau nhà Tống không dám xâm phạm Đại Cồ Việt và sau này, năm 1054 là Đại Việt.

CVL

PGS TS Cao Văn Liên

Nguồn Văn Hiến: http://vanhien.vn/news/ba-trieu-dung-nuoc-ngo--dinh--tien-le---tap-ii--ky-43-75714