3 loại tàu chiến là 'xương sống' của Hải quân Việt Nam

3 loại vũ khí đóng vai trò 'xương sống' của Hải quân Việt Nam hiện nay là tàu ngầm Kilo 636, tàu tên lửa lớp Molniya và tàu hộ vệ tên lửa Gepard 3.9.

1. Tàu ngầm Kilo 636

Việt Nam đã ký hợp đồng với Nga năm 2009 để mua 6 chiếc tàu ngầm diesel-điện lớp Kilo 636 (trị giá gần 2 tỉ USD) và việc bàn giao đã hoàn tất năm 2016. Loại tàu ngầm này được thiết kế cho các nhiệm vụ tầm trung và xa.

Thông số kỹ thuật chính

Chiều dài 73,8 m, rộng 9,9m

Lượng giãn nước:3.000 – 3.950 tấn

Tốc độ tối đa:37 km/giờ khi lặn

Độ sâu hoạt động:Thông thường là 240m, tối đa tới 300m

Thủy thủ đoàn:Có thể tự hành liên tục 45 ngày đêm với thủy thủ đoàn 52 người

Vũ khí chính:6 ống phóng ngư lôi 533mm (tổng cộng 18 quả ngư lôi), có khả năng phóng thủy lôi và tên lửa hành trình 3M-54E Klub-S (tầm bắn 220–300 km). Việc trang bị tên lửa Klub phiên bản đối hạm và tấn công đất liền biến Kilo 636 thành pháo đài di động, với tầm bắn chính xác đến 300km.

Tàu ngầm Kilo 636 tham gia diễu binh biển Khánh Hòa hồi tháng 7

Tàu ngầm Kilo 636 tham gia diễu binh biển Khánh Hòa hồi tháng 7

Kilo 636 rất khó phát hiện nên được các chuyên gia NATO gọi là “hố đen đại dương” nhờ độ ồn cực thấp và kỹ thuật chống dò âm tiên tiến. Trong chiến lược Việt Nam, tàu ngầm Kilo 636 có vai trò ngăn chặn và đối phó với các hạm đội đối phương. Lữ đoàn 189 (Hạm đội 4) được trang bị toàn bộ tàu Kilo 363, có nhiệm vụ bí mật triển khai, trinh sát và bất ngờ đánh chìm các mục tiêu địch.

Kết hợp với tổ hợp tên lửa phòng thủ bờ biển di động Bastion, các tàu ngầm Kilo 636 giúp Việt Nam tạo lớp phòng thủ sâu, khiến các tàu chiến đối phương gặp tiềm ẩn nhiều rủi ro nếu hoạt động gần bờ.

Bastion là tổ hợp tên lửa phòng thủ bờ biển di động do Nga phát triển, được thiết kế để tiêu diệt tàu chiến mặt nước hiện đại (gồm tàu sân bay, khu trục hạm, tàu đổ bộ...) hoạt động ở ngoài khơi, cách xa bờ.

Tàu ngầm Kilo 636 - niềm tự hào của Hải quân Việt Nam

Tính phù hợp với Việt Nam

Với bờ biển dài và thềm lục địa rộng lớn của Việt Nam, tàu ngầm Kilo 636 giúp hải quân có khả năng tác chiến bất đối xứng, ẩn mình và tung đòn đánh bất ngờ từ dưới biển - rất phù hợp với đặc điểm ở biển Đông.

2. Tàu tên lửa tấn công nhanh lớp Molniya

Tàu tên lửa tấn công nhanh lớp Molniya (hay lớp Tarantul) là vũ khí chủ lực cho tác chiến ven biển của Hải quân Việt Nam.

Hải quân Việt Nam hiện vận hành 8 tàu tên lửa Molniya (dự án 1241.8), trong đó 2 chiếc đầu tiên (HQ‑375 và HQ‑376) nhập từ Nga vào năm 2007-2008 và 6 chiếc tiếp theo được đóng tại nhà máy Ba Son (TP.HCM) theo theo giấy phép dự án 12418, đã hoàn thiện và bàn giao từ năm 2014 đến cuối 2017.

Tàu HQ‑379 được đóng tại nhà máy Ba Son và đưa vào biên chế Hải quân Việt Nam vào năm 2015

Tàu HQ‑379 được đóng tại nhà máy Ba Son và đưa vào biên chế Hải quân Việt Nam vào năm 2015

Thông số kỹ thuật và khả năng tác chiến của những tàu tên lửa tấn công nhanh lớp Molniya

Thông số kỹ thuật:Các tàu Molniya 1241.8 có chiều dài khoảng 56 - 60m, rộng hơn 10m, lượng giãn nước đầy tải khoảng 600 - 700 tấn. Tàu đạt tốc độ tối đa trên 70 km/giờ, thời gian tự hành đến 10 ngày trước khi tiếp liệu. So với Molniya 1241.RE, biến thể Molniya 1241.8 được cải tiến mạnh về vũ khí và điện tử.

Vũ khí chính:Molniya 1241.8 mang 16 tên lửa chống hạm Uran-E (3M-24E) có tầm bắn 130km, được bố trí bốn bệ bốn ống. Ngoài ra, tàu có pháo hạm 76mm AK-176M, hai hệ thống pháo hải quân tự động AK-630M (30mm) và có thể mang ngư lôi hoặc mìn chống ngầm. Hỏa lực tên lửa Uran (nhanh, tầm xa) giúp Tarantul 1241.8 tăng khả năng diệt hạm so với tên lửa P-15 Styx đời cũ trên các tàu cũ.

Khả năng tác chiến: Molniya 1241.8 được thiết kế đánh chặn các mục tiêu lớn trên biển, có khả năng đối đầu với các nhóm tàu địch, tàu đổ bộ, tàu hộ tống và bảo vệ tàu ngầm, đồng thời thực hiện trinh sát. Tính cơ động cao cho phép Molniya 1241.8 phản ứng nhanh ở vùng biển đảo, quần đảo.

Tóm lại, các tàu Molniya đóng vai trò tuyến phòng thủ tầm gần, hình thành chùm “hỏa lực di động” ở vùng biển ven bờ Trường Sa và vịnh Bắc Bộ. Đặc biệt, việc Việt Nam tự đóng 6 tàu Molniya theo dự án 1241.8 thể hiện năng lực làm chủ công nghệ và giúp tiết kiệm chi phí nhập khẩu. Việc nâng cấp tên lửa sang Uran-E cho thấy tính kinh tế trong chiến lược: Tận dụng thân tàu hiện hữu, đồng thời tăng gấp đôi tầm bắn so với P-15M.

Tính phù hợp với Việt Nam

Các tàu Molniya hoạt động hiệu quả trong môi trường ven bờ và quần đảo. Với chi phí vận hành thấp và hỏa lực mạnh, chúng đóng vai trò như lực lượng phòng thủ tuyến đầu, đặc biệt hữu ích trong chiến tranh bảo vệ đảo và duyên hải.

3. Tàu hộ vệ tên lửa lớp Gepard 3.9

Tàu hộ vệ tên lửa Gepard 3.9 là loại tàu chiến mặt nước hiện đại và mạnh mẽ hàng đầu của Hải quân Việt Nam. Đến nay, Hải quân Việt Nam đã vận hành 4 chiếc Gepard 3.9 (HQ-015 Trần Hưng Đạo và HQ-016 Quang Trung từ năm 2018; HQ-011 Đinh Tiên Hoàng và HQ-012 Lý Thái Tổ từ năm 2011).

Chiếc Gepard 3.9 có mã hiệu HQ-012 Lý Thái Tổ

Chiếc Gepard 3.9 có mã hiệu HQ-012 Lý Thái Tổ

Đặc điểm chính và vai trò chiến thuật của Gepard 3.9

Hỏa lực đa năng: Gepard 3.9 có trang bị vũ khí tương đối nặng so với tàu cùng hạng, có pháo hạm 76mm AK-176M (tầm bắn 15km), hai hệ thống pháo hải quân tự động AK-630 (tầm bắn gần 4km), các bệ phóng tên lửa chống hạm Kh-35 (hai bệ 4 ống, tổng cộng 8 tên lửa tầm 130 km).

Ngoài ra, tàu có ống phóng ngư lôi 533mm và tổ hợp phòng không ngắn tầm (Palash/Tunguska) để chống máy bay và tên lửa hành trình. Chưa hết, Gepard 3.9 có sân trực thăng và thường hoạt động cùng trực thăng Ka-28 để săn ngầm, tăng cường khả năng tác chiến chống tàu ngầm.

Vai trò chiến thuật: Gepard 3.9 có nhiệm vụ tìm kiếm tiêu diệt tàu ngầm, tàu mặt nước, phương tiện bay của địch, có thể thả thủy lôi, hộ tống đoàn tàu vận tải, cũng như chi viện hỏa lực cho lực lượng đổ bộ. Nhìn chung, Gepard 3.9 có thể hoạt động độc lập hoặc phối hợp với hạm đội, bảo vệ khu vực biển đảo rộng và tham gia các nhiệm vụ đối ngoại, tuần tra chung.

Gepard 3.9 mang lại năng lực tuần tra xa bờ tốt hơn cho Hải quân Việt Nam, vượt trội so với các tàu hộ tống đời trước đó, đồng thời tăng cường lớp phòng thủ tầm xa.

Sau nhiều năm trong biên chế, đội Gepard 3.9 đã được sử dụng trong các buổi diễn tập lớn và hoạt động đối ngoại. Ví dụ, năm 2014, hai chiến hạm Gepard 3.9 đã thực hiện chuyến thăm Indonesia, Brunei, Philippines như một hoạt động ngoại giao - quân sự nhằm tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Hải quân Việt Nam với các nước trong khu vực ASEAN.

Gepard 3.9 của Hải quân Việt Nam thăm Nhật Bản năm 2018

Tính phù hợp với Việt Nam

HQ-011 Đinh Tiên Hoàng và HQ-012 Lý Thái Tổ thiên về tác chiến mặt nước, còn HQ-015 Trần Hưng Đạo và HQ-016 Quang Trung được tối ưu hóa cho nhiệm vụ chống ngầm hiện đại. Đây là lực lượng nòng cốt của đội tàu mặt nước cỡ lớn thuộc Hải quân Việt Nam, góp phần nâng cao năng lực kiểm soát biển và bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển xa.

Kết luận

Các tàu nêu trên phù hợp cao với điều kiện địa lý – chiến lược của Việt Nam.

Việt Nam có bờ biển dài, nhiều vũng vịnh hẹp và quần đảo với địa hình phức tạp. Trong hoàn cảnh này, những vũ khí tầm gần và tầm trung là thích hợp: Tàu ngầm Kilo 636 ẩn náu trong lòng đại dương sẽ trở thành lực lượng ngăn chặn chiến lược nếu xung đột xảy ra; tên lửa tấn công nhanh lớp Molniya cơ động trên vùng biển ven bờ, có thể triển khai nhanh vào các ngõ ngách; còn tàu Gepard 3.9 tuần tra vùng biển rộng và đối phó với các mối đe dọa xa bờ.

Sơn Vân - Ảnh: Internet, Video: VTC

Nguồn Một Thế Giới: https://1thegioi.vn/3-loai-tau-chien-la-xuong-song-cua-hai-quan-viet-nam-235740.html