Xây dựng công nghiệp văn hóa trở thành ngành kinh tế quan trọng vào 2030
Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký quyết định phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Thủ tướng Phạm Minh Chính ký Quyết định số 2486/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Chiến lược xác định 10 ngành công nghiệp văn hóa chủ chốt được ưu tiên phát triển gồm: điện ảnh; mỹ thuật - nhiếp ảnh - triển lãm; nghệ thuật biểu diễn; phần mềm và trò chơi giải trí; quảng cáo; thủ công mỹ nghệ; du lịch văn hóa; thiết kế sáng tạo; truyền hình - phát thanh; xuất bản.
Đây là những ngành tạo ra các sản phẩm kết hợp yếu tố văn hóa, sáng tạo, công nghệ và quyền sở hữu trí tuệ, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, hưởng thụ văn hóa của người dân và phù hợp với mục tiêu hội nhập quốc tế, phát triển bền vững đất nước.

Nghệ thuật biểu diễn là một trong các ngành công nghiệp văn hóa được Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt mục tiêu tập trung phát triển trọng tâm, trọng điểm.
Hướng tới xây dựng công nghiệp văn hóa trở thành ngành kinh tế quan trọng, tăng trưởng nhanh, chiến lược nêu rõ, đến năm 2030, các ngành công nghiệp văn hóa phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 10%/năm, đóng góp 7% GDP; lực lượng lao động tăng 10%/năm và chiếm 6% tổng lao động xã hội. Cùng với đó, số lượng cơ sở kinh tế hoạt động trong lĩnh vực này tăng bình quân 10%/năm; giá trị xuất khẩu tăng 7%/năm.
Chiến lược nhấn mạnh việc quy hoạch và phát triển đồng bộ các trung tâm công nghiệp văn hóa, không gian sáng tạo, khu phức hợp văn hóa gắn với xây dựng thương hiệu sản phẩm địa phương và quốc gia. Đây sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tạo lập hệ sinh thái công nghiệp văn hóa hiện đại.
Tầm nhìn đến 2045 hướng đến một nền công nghiệp văn hóa phát triển bền vững, đóng góp 9% GDP, lực lượng lao động chiếm 8% trong tổng lực lượng lao động của nền kinh tế, quy mô các sản phẩm công nghiệp văn hóa số chiếm tỷ trọng trên 80% sản phẩm công nghiệp văn hóa, tăng trưởng về giá trị xuất khẩu của các ngành công nghiệp văn hóa đạt 9%/năm và trở thành quốc gia phát triển về công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí trong khu vực châu Á, khẳng định vị thế của Việt Nam trên bản đồ công nghiệp văn hóa thế giới.
Chiến lược nhấn mạnh việc phát triển các ngành công nghiệp văn hóa dựa trên tiềm năng và lợi thế của từng địa phương, gắn với quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm và lựa chọn một số tỉnh, thành phố hoặc địa bàn làm trung tâm kết nối. Đồng thời, tăng cường liên kết vùng, hạ tầng và hệ thống thiết chế văn hóa.
Khuyến khích phát triển doanh nghiệp sáng tạo, xây dựng hệ sinh thái chuyên nghiệp đồng bộ sáng tạo - sản xuất - kinh doanh đến quảng bá, tiêu dùng, gắn với bảo hộ sở hữu trí tuệ. Xây dựng các trung tâm phân phối, đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp văn hóa, chú trọng các thị trường sẵn có và mở rộng ra các thị trường tiềm năng trong nước và quốc tế.
Đến năm 2030, sản phẩm công nghiệp văn hóa tập trung phục vụ thị trường trong nước và tăng tốc xuất khẩu; đến năm 2045 phát huy tối đa tính chuyên nghiệp, sáng tạo, sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp văn hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Chiến lược tập trung phát triển 6 ngành trọng điểm: điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, phần mềm và trò chơi giải trí, quảng cáo, thủ công mỹ nghệ và du lịch văn hóa, nhằm gia tăng giá trị sản phẩm và chuyển hóa văn hóa thành sức mạnh mềm quốc gia.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch được giao chủ trì xây dựng kế hoạch triển khai; đề xuất các cơ chế, chính sách cần thiết; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và bộ chỉ tiêu thống kê cho các ngành công nghiệp văn hóa; đồng thời phối hợp liên ngành để bảo đảm việc triển khai thống nhất trên toàn quốc. Các bộ, ngành, địa phương và các tổ chức nghề nghiệp có trách nhiệm phối hợp thực hiện, bảo đảm Chiến lược đi vào thực tiễn.













