Xây dựng căn cứ địa trong Cách mạng Tháng Tám (*)

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố khách quan, chủ quan. Trong đó, không thể thiếu vai trò lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, nhạy bén và sáng suốt của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về chuẩn bị mọi điều kiện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền nói chung, xây dựng căn cứ địa cách mạng nói riêng.

1. Kế thừa những giá trị quý báu của truyền thống, nghệ thuật quân sự đánh giặc giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam và tinh hoa tư tưởng quân sự của nhân loại, đặc biệt là học thuyết quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc về vai trò hết sức quan trọng của căn cứ địa cách mạng đối với thành công của sự nghiệp cách mạng, đặc biệt là trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc.

Ngay từ những năm 1920, khi nghiên cứu về phong trào cách mạng ở các nước trên thế giới, Người đặc biệt quan tâm đến phong trào đấu tranh vũ trang của nông dân ở những nước nông dân chiếm số đông trong xã hội và đã đề cập đến căn cứ địa cách mạng với ý nghĩa là nơi thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt của phong trào đấu tranh cách mạng.

Sau khi từ châu Âu đến hoạt động ở miền Nam Trung Quốc để tìm đường trở về Tổ quốc, Người có điều kiện nghiên cứu thực tiễn phong trào đấu tranh của nhân dân Trung Quốc, trong đó có cả vấn đề xây dựng các căn cứ du kích. Sau khi về nước, trong bối cảnh công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ngày càng gấp rút, để tăng cường bồi dưỡng nhận thức, nâng cao trình độ cho các cán bộ, đặc biệt là cán bộ quân sự, Người đã viết tác phẩm "Chiến thuật du kích" (1944). Trong tác phẩm này, Người dành riêng một chương để bàn về vấn đề xây dựng căn cứ địa cách mạng và nêu quan điểm: “Đội du kích trong lúc hoạt động đánh quân thù cần có một vài nơi đứng chân làm cơ sở. Tại nơi ấy, đội du kích tích trữ lương thực, thuốc đạn, lâu lâu về đó nghỉ ngơi, luyện tập. Nơi ấy phải có địa thế hiểm yếu che chở và quần chúng cảm tình ủng hộ”.

Tổng kết lý luận và đúc rút kinh nghiệm thực tiễn, Hồ Chí Minh đã chỉ ra chân lý: “Muốn khởi nghĩa phải có căn cứ địa, muốn kháng chiến phải có hậu phương”.

2. Sau khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra (tháng 9-1940), Xứ ủy Bắc Kỳ đã cử đồng chí Trần Đăng Ninh lên Bắc Sơn lãnh đạo phong trào và thành lập đội du kích Bắc Sơn, xây dựng căn cứ du kích trên địa bàn.

Đầu năm 1941, khi quyết định về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sau khi cân nhắc tình hình mọi mặt đã chọn Pác Bó, Cao Bằng làm nơi đứng chân và đặt đại bản doanh để tổ chức và chỉ đạo phong trào cách mạng cả nước. Người chỉ rõ: “Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối phong trào được với Thái Nguyên và toàn quốc thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể tấn công, lúc khó khăn có thể giữ”. Trên thực tế, Cao Bằng đã trở thành nơi lãnh tụ Hồ Chí Minh nhen lên ngọn lửa cách mạng trong cao trào giải phóng dân tộc và từ đó lan rộng ra cả nước.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5-1941) dưới sự chủ trì của lãnh tụ Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định và kế thừa, hoàn thiện chủ trương thay đổi chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết, trước hết đã được Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng nêu ra. Hội nghị chủ trương phải tiếp tục xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân. Hội nghị xác định: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang” và chỉ ra rằng, muốn cuộc khởi nghĩa vũ trang giành được thắng lợi phải có đủ những điều kiện khách quan và chủ quan. Hội nghị quyết định lấy vùng miền núi Việt Bắc để xây dựng căn cứ vũ trang, trước hết là căn cứ Cao Bằng và căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai.

Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, sự chỉ huy trực tiếp của các đồng chí: Phùng Chí Kiên, Lương Văn Tri, Chu Văn Tấn…, dù thực dân Pháp tăng cường đàn áp, càn quét khốc liệt, dã man, song lực lượng du kích Bắc Sơn đã không ngừng phát triển mạnh mẽ thành các đội Cứu quốc quân - một trong những tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Bắc Sơn - Võ Nhai trở thành vùng căn cứ địa cách mạng, trực tiếp giúp nuôi dưỡng, bảo vệ và phát triển lực lượng Cứu quốc quân. Đặc biệt, sau khi Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp xong, Cứu quốc quân đã bảo vệ các đồng chí Trung ương về xuôi an toàn, trong bối cảnh thực dân Pháp huy động một lực lượng lớn tăng cường khủng bố, càn quét, hòng chặn bắt các đồng chí đi dự hội nghị trở về.

Trong năm 1942, với sự phát triển mạnh mẽ của Mặt trận Việt Minh, phong trào cách mạng đã lan rộng xuống Bắc Kạn và Lạng Sơn. Trước tình hình phát triển thuận lợi đó, Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã quyết định thành lập Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng, Ban Việt Minh Liên tỉnh và chỉ đạo khẩn trương mở các đường Nam tiến, Tây tiến, Đông tiến, để đánh thông giữa căn cứ Cao Bằng và căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai rồi lan rộng ra các tỉnh xung quanh, tạo thành một khu căn cứ thống nhất.

3. Sau Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ban Thường vụ Trung ương Đảng do đồng chí Trường Chinh đứng đầu đã về đứng chân ở vùng ven Hà Nội, giúp việc nắm bắt và chỉ đạo phong trào trong cả nước diễn ra thuận lợi. Trước tình hình nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có cả những đồng chí lãnh đạo của Trung ương và Xứ ủy bị bắt, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương lập các An toàn khu hoạt động theo nguyên tắc hoàn toàn bí mật, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng.

Từ chủ trương này, một khu an toàn đã được thành lập bao gồm các làng, xã thuộc Đông Anh, một phần Phúc Yên, một phần Từ Sơn, Gia Lâm, một phần Hoài Đức. Trong vùng An toàn khu, Trung ương chủ trương không phát động quần chúng đấu tranh, để đánh lạc hướng sự chú ý của kẻ địch. Nhờ có việc tổ chức An toàn khu, trong suốt thời gian từ đầu năm 1942 đến tháng 8-1945, cơ quan Trung ương được giữ vững và bảo đảm an toàn ở ngay sát Hà Nội, luôn theo sát tình hình và có sự chỉ đạo kịp thời phong trào cách mạng cả nước. Trong khi đó, các cơ quan mật thám, cảnh sát của thực dân Pháp lại tin rằng cơ quan Trung ương Đảng đã chuyển lên vùng rừng núi biên giới phía Bắc.

Tại Hội nghị tháng 2-1943 tại Võng La, Đông Anh, Ban Thường vụ Trung ương Đảng tiếp tục khẳng định tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 5-1941, coi chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Một trong những quyết định quan trọng của hội nghị là nhấn mạnh công tác xây dựng căn cứ địa và phát triển lực lượng vũ trang.

Sau hội nghị, để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho cơ quan Trung ương và các cơ quan trực thuộc không bị gián đoạn, Trung ương Đảng đã chỉ đạo thành lập An toàn khu dự bị gồm hầu hết các xã của huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang cũ), một phần huyện Phú Bình, một phần huyện Phổ Yên (Thái Nguyên). Đầu năm 1944, Trung ương đã chính thức công nhận An toàn khu dự bị.

Tiếp tục sự chỉ đạo về xây dựng căn cứ địa cách mạng, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng tháng 3-1945, với bản Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” nổi tiếng, đã tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ phát động chiến tranh du kích ở những nơi có địa hình địa thế phù hợp, bảo vệ các khu du kích, thành lập những căn cứ địa mới, thống nhất các chiến khu.

Tháng 4-1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hòa, do Trung ương Đảng tổ chức, với sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh đã khẳng định: “Tình thế đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật, để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ”. Hội nghị quyết định xây dựng 7 chiến khu chống Nhật trong cả nước: Chiến khu Lê Lợi, Chiến khu Quang Trung, Chiến khu Hoàng Hoa Thám, Chiến khu Trần Hưng Đạo ở Bắc Kỳ; Chiến khu Phan Đình Phùng ở Trung Kỳ, Chiến khu Nguyễn Tri Phương ở Nam Kỳ.

Đầu tháng 6-1945, sau khi nghe báo cáo về những nghị quyết của Hội nghị quân sự Bắc Kỳ, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chỉ thị: “Nay vùng giải phóng ở miền ngược đã bao gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, địa thế nối liền với nhau, nên lập thành một khu căn cứ lấy tên là Khu giải phóng”. Người còn bàn với các đồng chí Hoàng Quốc Việt, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng làm bản dự thảo về việc thành lập Khu giải phóng và quyết định triệu tập Hội nghị cán bộ toàn khu để thống nhất lãnh đạo và triển khai công tác. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Người, ngày 4-6-1945, Hội nghị cán bộ toàn Khu đã được triệu tập và quyết định thành lập Khu giải phóng Việt Bắc, gồm các tỉnh lúc đó là Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng phụ cận thuộc các tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái, với thủ đô là Tân Trào. Đó là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới. Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh đã được thực thi trong Khu giải phóng, mang lại cho hơn một triệu đồng bào trong Khu niềm vui sướng, hân hoan được hưởng những thành quả của một chế độ mới.

Sự phát triển và mở rộng của các căn cứ địa đã thúc đẩy nhanh chóng việc xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa ở các địa phương trên cả nước, đặc biệt là các tỉnh miền núi và trung du phía Bắc. Thực tiễn Cách mạng Tháng Tám cho thấy, dưới sự chỉ đạo sáng suốt, tài tình của Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, các căn cứ địa cách mạng đã trở thành cơ sở hết sức thuận lợi để lực lượng cách mạng khởi nghĩa giành chính quyền thành công khi thời cơ chín muồi.

80 năm đã qua, độ lùi lịch sử cho phép nhìn nhận rõ hơn tầm vóc, giá trị và bài học sâu sắc của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong đó, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với việc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền nói chung, xây dựng căn cứ địa cách mạng nói riêng vẫn mang tầm vóc, giá trị to lớn cả về lý luận và thực tiễn, là bài học kinh nghiệm quý báu đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay và mai sau.

------

(*) Trích tham luận của PGS.TS Lý Việt Quang, Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) tại Hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề "Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9: Giá trị thời đại và sức sống trường tồn".

PGS.TS Lý Việt Quang

Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/xay-dung-can-cu-dia-trong-cach-mang-thang-tam-714280.html