Việt Nam có chỉ số xuất khẩu công nghệ cao đứng đầu thế giới
Việt Nam có 3 chỉ số đứng đầu thế giới là chỉ số nhập khẩu công nghệ cao, xuất khẩu công nghệ cao và xuất khẩu hàng hóa sáng tạo.
3 chỉ số đứng đầu thế giới
Trong báo cáo gửi đến Quốc hội, Chính phủ cho hay Việt Nam đang được nhìn nhận là có hệ sinh thái khởi nghiệp nổi trội ở khu vực Đông Nam Á.
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới đánh giá Việt Nam tăng 2 bậc về chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu, xếp thứ 44/133 quốc gia, nền kinh tế; năm 2025 xếp hạng 44/139.
Việt Nam cũng đang có khoảng 4.000 DN khởi nghiệp sáng tạo, trong đó 2 DN được xem là "kỳ lân", trên 1.400 tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp, 208 quỹ đầu tư…
Đáng chú ý, trong 14 năm liền, Việt Nam luôn có kết quả đổi mới sáng tạo (ĐMST) cao hơn so với mức độ phát triển, cho thấy hiệu quả trong việc chuyển các nguồn lực đầu vào thành kết quả đầu ra ĐMST.

Việt Nam có 3 chỉ số đứng đầu thế giới liên quan đến công nghệ cao
Đặc biệt, năm 2024, Việt Nam có 3 chỉ số đứng đầu thế giới là chỉ số nhập khẩu công nghệ cao, xuất khẩu công nghệ cao và xuất khẩu hàng hóa sáng tạo (tính trên tổng giao dịch thương mại). Đây là lần đầu tiên chỉ số xuất khẩu hàng hóa sáng tạo đạt vị trí dẫn đầu thế giới.
Tuy vậy, bên cạnh các kết quả đạt được nêu trên, việc phát triển thị trường khoa học công nghệ (KHCN) vẫn nhiều hạn chế.
Chẳng hạn, vốn ngân sách đầu tư cho hoạt động KHCN và nghiên cứu phát triển cũng ở mức thấp (0,42% năm 2021) so với các nước trong khu vực.
Mặc dù nhu cầu ứng dụng và đổi mới công nghệ của DN tăng cao, nhưng các DN Việt Nam chưa thực sự cạnh tranh bằng công nghệ và sáng tạo. Việc đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa chưa gắn với lợi ích thiết thân của DN.
Hoạt động liên kết, chuyển giao KHCN từ DN FDI cho rất hạn chế. Hầu hết các DN FDI có hoạt động chuyển giao công nghệ đều là các DN chuyển giao công nghệ từ công ty mẹ, có đại diện theo pháp luật là người nước ngoài, nắm toàn bộ quy trình.
Mặt khác, năng lực hấp thụ công nghệ, đổi mới công nghệ của DN trong nước còn hạn chế. Trình độ công nghệ của một số ngành, lĩnh vực còn khoảng cách khá xa so với các nước tiên tiến trên thế giới.
Chính phủ cho rằng đây là trở ngại lớn cho việc làm chủ công nghệ từ nước ngoài và các hoạt động lan tỏa công nghệ cao, công nghệ lõi, công nghệ mới từ các DN FDI sang DN trong nước.
Ngoài ra, Việt Nam cũng thiếu cơ sở dữ liệu thống kê quốc gia tin cậy, đồng bộ về KHCN và nhất là ĐMST trong DN. Mối liên kết giữa nghiên cứu và đào tạo, giữa nghiên cứu với thị trường, giữa nhà khoa học với DN còn yếu.
“Nhiều kết quả nghiên cứu KHCN trong nước có địa chỉ ứng dụng nhưng chưa chuyển giao được. Trong khi đó, các tổ chức trung gian của thị trường KHCN có năng lực cung cấp các dịch vụ tư vấn, môi giới, xúc tiến, chuyển giao công nghệ còn yếu”, báo cáo nhìn nhận.
Đang triển khai các chính sách vượt trội
Chính phủ cho hay nguyên nhân của tình trạng trên là cơ chế triển khai về Luật KHCN và ĐMST còn bất cập. Điều này dẫn đến khó khăn trong triển khai các cơ chế tài chính cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ.
Chính sách ưu đãi thuế đối với khoản kinh phí đầu tư cho KHCN tuy đã có nhưng trên thực tế còn nhiều vướng mắc về trình tự, thủ tục khi thực hiện; đa phần DN Việt Nam là các DNNVV, việc huy động nguồn lực đủ lớn về tài chính và nhân lực cho hoạt động đổi mới công nghệ còn rất khó khăn…
Giai đoạn tới, Chính phủ xác định rõ những công nghệ trọng điểm, công nghệ lõi, công nghệ cao cần ưu tiên phát triển dựa trên thế mạnh, thực tiễn của Việt Nam.

Nhiều chính sách thúc đẩy phát triển KH-CN đang được triển khai
Theo đó, hình thành một số dự án KHCN, dự án ĐMST cấp quốc gia ở một số lĩnh vực trọng điểm; thí điểm chính sách tạo động lực thương mại hóa, đưa nhanh kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ được tạo ra từ NSNN vào sản xuất, kinh doanh.
“Xây dựng và triển khai các chính sách vượt trội về KHCN, ĐMST; tạo dựng khuôn khổ pháp lý triển khai các cơ chế thí điểm, thử nghiệm và đặc thù đối với các loại hình/mô hình kinh tế mới dựa trên KHCN, ĐMST”, báo cáo nêu.
Chính phủ cũng cho hay sẽ phát triển mạnh nhân lực KHCN, khuyến khích khu vực tư nhân, các DN tăng cường các hình thức hợp tác công - tư tham gia đào tạo nhân lực KHCN.
“Chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; có cơ chế, chính sách ưu tiên, đột phá, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để thu hút nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài tham gia phát triển KHCN, ĐMST Việt Nam”, báo cáo nêu.
Song song đó, khuyến khích các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài chuyển giao công nghệ cho các DN Việt Nam hoặc thành lập các cơ sở nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam; chú trọng khai thác, chuyển giao công nghệ từ các địa bàn có công nghệ nguồn để rút ngắn khoảng cách, nâng cao trình độ, năng lực KHCN trong nước.
Đặc biệt là xây dựng và thực thi cơ chế đặc thù, chấp nhận rủi ro, thất bại trong nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ; tập trung gỡ bỏ các rào cản hành chính trong quản lý hoạt động KHCN…











