'Tự chủ chiến lược' - bước phát triển trong kỷ nguyên vươn mình: Bài 2: Biện chứng lý luận gắn với thực tiễn và xu thế thời đại
Đường lối 'tự chủ chiến lược' được hình thành như một bước phát triển tất yếu và biện chứng trong tư duy lý luận và thực tiễn lãnh đạo của Đảng: Bắt nguồn từ yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên mới; được kế thừa từ nền tảng tư tưởng độc lập, tự chủ của dân tộc; dựa trên cơ sở lý luận vững chắc của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời được củng cố, phát triển qua thực tiễn đổi mới, hội nhập quốc tế và xu thế vận động của thời đại.
Đường lối “tự chủ chiến lược” của Đảng được hình thành và phát triển trên cơ sở vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định, mọi quốc gia, dân tộc đều có quyền độc lập, tự chủ, quyền tự quyết định vận mệnh và con đường phát triển của mình; song quyền đó chỉ có thể được bảo đảm khi mọi hình thức áp bức giữa các dân tộc bị xóa bỏ, bởi “một dân tộc mà đi áp bức dân tộc khác thì không thể có tự do”. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản chỉ rõ: “Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ”... Theo C.Mác và Ph.Ăngghen: Quyền của các quốc gia, dân tộc chỉ được bảo đảm khi cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản giành thắng lợi, trước hết là ở phạm vi từng quốc gia, sau đó là phạm vi toàn nhân loại. Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc.

Đông đảo người dân tham quan khu trưng bày của Bộ Quốc phòng tại Triển lãm thành tựu đất nước, tháng 9-2025.Ảnh: HOÀNG CHUNG
Kế thừa và phát triển sáng tạo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã đưa lý luận về độc lập, tự chủ của các quốc gia, dân tộc lên tầm cao mới thông qua tư tưởng về quyền dân tộc tự quyết: “Quyền dân tộc tự quyết hoàn toàn chỉ có nghĩa là các dân tộc có quyền độc lập chính trị, có quyền tự do phân lập, về mặt chính trị, khỏi dân tộc áp bức họ” (V.I.Lênin toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật, H.2005, t.27, tr.327). Với Lênin, quyền dân tộc tự quyết là cơ sở để bảo đảm độc lập, tự chủ thực sự cho các dân tộc, chống lại mọi hình thức nô dịch và thôn tính. Ông kiên quyết phản đối mọi “mối liên hệ cưỡng bức giữa các dân tộc”, bởi phủ nhận quyền tự quyết “trên thực tế tất nhiên có nghĩa là ủng hộ đặc quyền của dân tộc thống trị”. Vì vậy, ông yêu cầu các đảng cộng sản ở các nước đế quốc phải ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, coi đó là một bộ phận hữu cơ của cách mạng vô sản thế giới, đồng thời bổ sung khẩu hiệu của Mác-Ăngghen thành “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập và tự chủ là giá trị thiêng liêng, là biểu hiện cao nhất của quyền làm chủ vận mệnh dân tộc, đồng thời là tiêu chí thể hiện bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh của một quốc gia. Người luôn khẳng định: Độc lập không chỉ là thoát khỏi sự thống trị của ngoại bang mà còn là quyền tự mình quyết định con đường phát triển: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”. Theo Người, độc lập mà không có tự chủ thì nền độc lập ấy dễ bị đánh mất; vì vậy, phải xây dựng thế độc lập vững chắc trên cơ sở sức mạnh của chính dân tộc mình. Người nhấn mạnh: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”, và “Muốn người ta giúp cho, thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình đã”. Người đặc biệt nhấn mạnh, độc lập, tự chủ chỉ có thể có được khi chúng ta có thực lực, biết tạo ra thực lực cho chính mình, bởi: “Ta có mạnh thì họ mới chịu “đếm xỉa đến”. Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay của kẻ khác, dầu là kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy”. Hồ Chí Minh khẳng định: Độc lập dân tộc không thể tách rời khỏi tinh thần tự cường dân tộc-một tinh thần bắt nguồn từ truyền thống “lấy dân làm gốc”, phát huy sức mạnh toàn dân, dựa vào nội lực, vào sức sáng tạo và ý chí vươn lên của chính nhân dân. Độc lập, tự chủ không chỉ là mục tiêu mà còn là phương châm, là nguyên tắc chỉ đạo cho toàn bộ sự nghiệp cách mạng, cho cả công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ là nền tảng tư tưởng và cơ sở lý luận trực tiếp để Đảng ta phát triển tư duy “tự chủ chiến lược” trong thời kỳ mới. Từ quyền tự quyết của các dân tộc đến yêu cầu tự lực, tự cường của mỗi quốc gia, các luận điểm đó khẳng định một chân lý: Chỉ khi tự mình và đủ sức làm chủ, dân tộc mới thực sự độc lập và phát triển bền vững.
Tư duy mới của Đảng ta về “tự chủ chiến lược” trong kỷ nguyên mới còn được hình thành trên cơ sở thực tiễn vững chắc. Trước hết, đó là sự phát triển có tính liên tục, hợp quy luật của thực tiễn đấu tranh và phát triển của dân tộc Việt Nam. Xuyên suốt chiều dài lịch sử, với khát vọng mãnh liệt về độc lập, tự do và ý chí tự cường, dân tộc ta đã không ngừng đấu tranh để khẳng định quyền làm chủ vận mệnh của mình. Từ khi Đảng ta cầm quyền, khát vọng ấy được nâng lên tầm cao mới: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trải qua các giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn kiên định và sáng tạo trong việc giữ vững độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động hội nhập quốc tế để tạo thế và lực mới cho đất nước. Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc ngày càng gay gắt, yêu cầu phát triển tư duy độc lập, tự chủ lên tầm “tự chủ chiến lược” là bước phát triển tất yếu, thể hiện tầm nhìn xa và bản lĩnh chính trị của Đảng trong lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công cuộc đổi mới đất nước trong gần 40 năm qua đã đem lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo thế và lực mới cho dân tộc Việt Nam trên con đường phát triển. Độc lập, chủ quyền quốc gia và môi trường hòa bình được giữ vững; chính trị-xã hội ổn định; kinh tế ngày càng phát triển; quốc phòng, an ninh vững chắc; đời sống mọi mặt của nhân dân không ngừng được nâng cao; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định. Những thành tựu đó không chỉ khẳng định đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, mà còn là tiền đề vững chắc để độc lập, tự chủ của dân tộc được nâng lên một tầm cao mới-tầm “tự chủ chiến lược”: Việt Nam không chỉ tự quyết định con đường đi của mình mà còn chủ động tham gia định hình các xu thế của khu vực và thế giới.
Hiện nay, “tự chủ chiến lược” đang trở thành một xu hướng nổi bật trong quan hệ quốc tế, phản ánh sự chuyển dịch từ thế giới đơn cực sang đa cực, đa trung tâm, nơi các quốc gia, đặc biệt là các nước tầm trung và đang phát triển ngày càng coi trọng việc củng cố quyền tự chủ, tự quyết về chiến lược. Trong bối cảnh cạnh tranh giữa các nước lớn gia tăng, những biến động về kinh tế, an ninh, công nghệ và chuỗi cung ứng toàn cầu buộc các quốc gia phải xác định rõ hơn lợi ích cốt lõi và cách thức bảo vệ chúng. “Tự chủ chiến lược” vì thế không chỉ là vấn đề bảo vệ chủ quyền, mà còn là năng lực hoạch định và thực thi chính sách độc lập, linh hoạt, dựa trên sức mạnh nội sinh của quốc gia, tránh lệ thuộc vào bất kỳ cực quyền lực nào. Nhiều quốc gia đã coi “tự chủ chiến lược” là điều kiện tiên quyết để bảo đảm ổn định, phát triển bền vững và nâng cao vị thế trong hệ thống quốc tế đang định hình lại. Trong bối cảnh đó, đường lối “tự chủ chiến lược” thể hiện tầm nhìn nhạy bén và chủ động của Đảng ta trong thích ứng với với xu thế vận động của thế giới đương đại.
Như vậy, có thể khẳng định, đường lối “tự chủ chiến lược” của Đảng ta là sự lựa chọn đúng đắn, kịp thời và phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước, không những đúng về thời điểm, trúng về xu thế và vững chắc về cơ sở lý luận, thực tiễn, mà còn thể hiện tư duy chủ động, sáng tạo của Đảng trong việc nâng tầm độc lập, tự chủ của dân tộc, bảo đảm cho đất nước phát triển vững vàng trong kỷ nguyên mới.
(còn nữa)











