Truy xuất nguồn gốc cần vượt qua tư duy 'dán tem' và hướng tới liên thông quốc tế

Tiến độ, chất lượng triển khai hệ thống truy xuất nguồn gốc vẫn không đồng đều, thiếu sự đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật và kết nối dữ liệu quốc gia; quy mô áp dụng còn hạn chế; chưa coi truy xuất nguồn gốc là một phần trong quản trị sản xuất – kinh doanh…

Truy xuất nguồn gốc không chỉ là gắn chip, dán tem lên sản phẩm.

Truy xuất nguồn gốc không chỉ là gắn chip, dán tem lên sản phẩm.

Tại hội nghị “Sơ kết 5 năm thực hiện Đề án 100 (về triển khai, áp dụng và quản lý hệ thống truy xuất nguồn gốc giai đoạn 2019-2025)” ngày 11/12/2025, ông Bùi Bá Chính, Giám đốc Trung tâm Mã số, mã vạch quốc gia, đánh giá qua 5 năm triển khai Đề án góp phần quan trọng trong việc chuẩn hóa, xây dựng và phát triển hệ thống truy xuất nguồn gốc quốc gia; tạo nền tảng dữ liệu thống nhất.

Khung pháp lý và tiêu chuẩn đã được hoàn thiện ở mức độ cao, nâng tầm truy xuất nguồn gốc từ mức quy định dưới luật lên thành cơ sở pháp lý có hiệu lực cao, tạo sự thống nhất và cam kết lâu dài.

Công tác chỉ đạo triển khai tại địa phương đạt phạm vi bao phủ toàn diện. Đến năm 2025, toàn bộ 34 tỉnh/thành phố mới sau sắp xếp đơn vị hành chính đều đã ban hành kế hoạch triển khai Đề án. Hệ thống quản lý truy xuất nguồn gốc cấp tỉnh từng bước hình thành và kết nối với Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa quốc gia. Đến năm 2025, khoảng 35 địa phương cũ (24 tỉnh/thành mới) đã xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc cấp tỉnh.

TIẾN ĐỘ, CHẤT LƯỢNG TRIỂN KHAI KHÔNG ĐỒNG ĐỀU

Mặc dù đạt được nhiều kết quả quan trọng, song ông Chính cho rằng quá trình triển khai Đề án 100 trong giai đoạn 2019–2025 vẫn còn bộc lộ một số hạn chế cần được khắc phục để bảo đảm mục tiêu lâu dài.

Thứ nhất, tiến độ và chất lượng triển khai không đồng đều giữa các vùng, miền. Một số địa phương triển khai sâu, bài bản và có hệ thống, trong khi nhiều địa phương khác mới chỉ dừng lại ở bước ban hành kế hoạch hoặc thực hiện ở quy mô hạn chế, đặc biệt tại các tỉnh miền núi, trung du và vùng sâu, vùng xa. Năng lực tổ chức, nguồn lực tài chính và hạ tầng công nghệ thông tin giữa các địa phương còn chênh lệch đáng kể, dẫn đến mức độ áp dụng truy xuất nguồn gốc khác nhau, tạo sự phân tán trong tổng thể hệ thống.

Thứ hai, hạ tầng kỹ thuật và mức độ kết nối dữ liệu quốc gia chưa đạt sự đồng bộ cần thiết. Việc chuẩn hóa dữ liệu, tích hợp thông tin và vận hành theo tiêu chuẩn thống nhất vẫn gặp khó khăn do sự đa dạng về phần mềm, mô hình quản lý và tiêu chuẩn dữ liệu được sử dụng tại các địa phương.

Các chuyên gia, nhà quản lý chia sẻ tại hội nghị.

Các chuyên gia, nhà quản lý chia sẻ tại hội nghị.

Thứ ba, việc cập nhật và duy trì dữ liệu truy xuất của doanh nghiệp chưa thường xuyên, chủ yếu tập trung vào các địa phương có quy mô sản xuất lớn hoặc có chính sách hỗ trợ mạnh. Một bộ phận doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ sản xuất chưa chú trọng duy trì nhật ký điện tử, chưa coi truy xuất nguồn gốc là một phần trong quản trị sản xuất – kinh doanh, dẫn đến dữ liệu thiếu ổn định và chưa phản ánh đầy đủ chuỗi giá trị.

Thứ tư, công tác đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật chưa đồng đều về chiều sâu, mặc dù được triển khai rộng. Việc đào tạo chủ yếu tập trung vào thời điểm ban đầu, chưa có nhiều chương trình đào tạo nâng cao hoặc đào tạo chuyên sâu theo hướng thực hành, khiến năng lực vận hành chưa bền vững. Nhiều địa phương thiếu nhân lực chuyên trách, hạ tầng công nghệ thông tin chưa đồng bộ, dẫn đến dữ liệu không được cập nhật thường xuyên.

Thứ năm, cơ chế phối hợp liên ngành chưa thật sự chặt chẽ, đặc biệt trong chia sẻ thông tin, chuẩn hóa quy trình nghiệp vụ và kết nối dữ liệu giữa các ngành hàng, lĩnh vực quản lý. Một số quy định hướng dẫn về tiêu chuẩn kỹ thuật, phân quyền quản trị dữ liệu và trách nhiệm trong vận hành hệ thống còn chưa thống nhất, chưa tạo điều kiện tối ưu để triển khai liên thông trên phạm vi toàn quốc.

Ở góc độ địa phương, bà Hoàng Thị Hồng Ngọc, Chi cục trưởng Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng Hải Phòng, bổ sung những hạn chế thực tế tại cơ sở. Cụ thể, một số tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp nhỏ chưa thực sự hiểu rõ tầm quan trọng và lợi ích của truy xuất nguồn gốc. Vẫn nhiều suy nghĩ cho rằng truy xuất nguồn gốc chỉ là hoạt động dán tem lên sản phẩm.

Mặt khác, hạn chế về công nghệ do các cơ sở sản xuất nhỏ (hộ kinh doanh, hợp tác xã) chưa làm chủ công nghệ thông tin hiện đại, thiếu liên kết chuỗi cung ứng. Việc ghi chép thủ công dễ gây sai sót, ảnh hưởng tính minh bạch và độ tin cậy của dữ liệu.

Đặc biệt, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, chất lượng chưa ổn định, chưa tạo được liên kết bền vững giữa sản xuất và tiêu thụ. Cổng thông tin Quốc gia hoạt động chưa ổn định, thiếu quy chế phân quyền cho địa phương, gây khó khăn cho quản lý nhà nước.

TIẾN TỚI XÂY DỰNG HỆ SINH THÁI TRUY XUẤT NGUỒN GỐC HIỆN ĐẠI

Bà Nguyễn Thị Mai Hương, Trưởng Ban Quản lý chất lượng và Đánh giá sự phù hợp, Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia, cho biết định hướng giai đoạn 2026-2030 của Đề án 100 là xây dựng hệ sinh thái truy xuất nguồn gốc hiện đại, số hóa, liên thông.

7 mục tiêu chính đặt ra: 100% bộ, ngành và 34 tỉnh/thành phố ban hành hoặc cập nhật kế hoạch về triển khai hoạt động truy xuất nguồn gốc; ít nhất 80% dữ liệu truy xuất nguồn gốc của các ngành hàng trọng điểm được chia sẻ lên Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa quốc gia; 150.000 doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất tham gia Cổng; 4 triệu sản phẩm được định danh trên Cổng truy xuất nguồn gốc quốc gia; 100% sản phẩm rủi ro cao áp dụng truy xuất nguồn gốc bắt buộc được chia sẻ dữ liệu lên Cổng; ứng dụng tối thiểu 2 công nghệ tiên tiến cho hệ thống truy xuất nguồn gốc (AI, Blockchain); kết nối 2-3 hệ thống truy xuất nguồn gốc quốc tế để hỗ trợ xuất khẩu.

Đến 2030, 100% bộ, ngành và 34 tỉnh/thành phố ban hành hoặc cập nhật kế hoạch về triển khai hoạt động truy xuất nguồn gốc.

Đến 2030, 100% bộ, ngành và 34 tỉnh/thành phố ban hành hoặc cập nhật kế hoạch về triển khai hoạt động truy xuất nguồn gốc.

Để đạt các mục tiêu đặt ra, ông Chính đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, TCVN, QCVN về truy xuất nguồn gốc. Phối hợp với các bộ, ngành ban hành quy định về nhóm sản phẩm rủi ro cao bắt buộc thực hiện truy xuất nguồn gốc, nhóm sản phẩm ưu tiên, thời gian lưu trữ dữ liệu tối thiểu, và chế tài xử lý vi phạm.

Tổ chức thí điểm, nhân rộng mô hình truy xuất nguồn gốc theo chuẩn quốc tế trong các lĩnh vực xuất khẩu trọng điểm (nông sản, thủy sản, dược phẩm). Phối hợp với cơ quan chuyên môn hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu đáp ứng các quy định quốc tế mới của EU như Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), Quy định chống phá rừng (EUDR).

Từng bước áp dụng hộ chiếu số cho sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm xuất khẩu chủ lực và các sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu lớn sang thị trường EU. Thực hiện báo cáo thường niên, báo cáo tổng kết giai đoạn; đồng thời quản lý, vận hành, duy trì, cập nhật cơ sở dữ liệu truy xuất nguồn gốc sản phẩm hàng hóa quốc gia.

Quan trọng nữa, cần xây dựng chính sách sử dụng cơ sở dữ liệu truy xuất nguồn gốc để tạo thuận lợi cho quản lý chuyên ngành, xuất nhập khẩu, bảo vệ người tiêu dùng và phát triển sản xuất trong nước. Đẩy nhanh việc áp dụng chuẩn định danh thống nhất đối với sản phẩm, hàng hóa, nhằm bảo đảm liên thông dữ liệu trong nước và quốc tế.

Vũ Khuê

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/truy-xuat-nguon-goc-can-vuot-qua-tu-duy-dan-tem-va-huong-toi-lien-thong-quoc-te.htm