Thất Sơn dáng núi hình sông

Đi dọc dòng kênh Vĩnh Tế, từ Hà Tiên lên Châu Đốc, theo quốc lộ N1, tôi mê mải ngắm nhìn dòng kênh với những con thuyền chất đầy thóc mới xuôi ngược. Cũng bên đôi bờ kênh ấy còn mở ra trước mắt tôi mênh mang những đồng lúa chín vàng cùng với những hàng cây thốt nốt soi bóng trong nắng chiều giòn tan của miền đất huyền thoại Bảy Núi.

Thiên Cấm Sơn

Thiên Cấm Sơn

Nhắc đến Thất Sơn (còn gọi là xứ Bảy Núi, tỉnh An Giang, trước đây thuộc bốn huyện Tri Tôn, Thoại Sơn, thị xã Tịnh Biên và thành phố Châu Đốc) là người ta nghĩ đến một trong những miền đất huyền thoại của đất nước, nơi lắng hồn núi sông nằm ở phía biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Điểm đặc biệt của miền đất này là một dải núi hình cánh cung không liền nhau, nổi lên giữa đồng bằng sông Cửu Long tựa như một miền bán sơn địa với những cảnh vật núi non hùng vĩ và thơ mộng, cảnh sắc từng được mệnh danh là “đệ nhất miền Tây”. Và cũng bởi cái điểm đặc biệt ấy mà người ta bảo rằng, Thất Sơn là tặng phẩm ưu ái của bà mẹ thiên nhiên dành cho miền đất An Giang và ví nó giống như một báu vật của vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Vãng cảnh non xanh nước biếc An Giang, ta sẽ thấy miền đất Thất Sơn không chỉ có phong cảnh hữu tình mà mỗi ngọn núi, dòng kênh nơi đây còn ẩn chứa trong mình biết bao lớp trầm tích về lịch sử, văn hóa của xứ sở qua những huyền thoại về tên núi, tên sông cùng bao thế hệ tiền nhân đi mở cõi và giữ gìn, bảo vệ biên cương.

1. Thất Sơn với dáng núi

Thất Sơn hay còn gọi là Bảy Núi nhưng không phải chỉ có bảy ngọn núi. Thực tế trải dài trên miền biên viễn Tây Nam ở An Giang này người ta đếm được ba mươi bảy ngọn núi lớn nhỏ với độ cao trung bình từ năm mươi mét đến hơn bảy trăm mét, so với mực nước biển. Ba mươi bảy ngọn núi này đột khởi, sừng sững nhô lên giữa bao la phù sa bằng phẳng, màu mỡ của vùng đất “chín rồng” tạo thành điểm nhấn đặc biệt kỳ thú cho cảnh quan đồng bằng châu thổ. Ba mươi bảy ngọn núi sao gọi là Thất Sơn, tức là bảy ngọn núi? Điều thắc mắc này tường chừng phi khoa học nhưng thực ra cũng rất dễ hiểu. Người ta đặt tên cho vùng bán sơn địa này bằng cách chọn bảy ngọn núi tiêu biểu để gọi nên mới có danh xưng Thất Sơn hay là Bảy Núi, nghe truyền kể rằng, bảy ngọn núi này đều là những “linh huyệt” ở miền biên thùy An Giang. Bảy ngọn núi gồm có: núi Cấm (còn gọi là Thiên Cấm Sơn hay núi Ông Cấm ở xã An Hảo thuộc thị xã Tịnh Biên trước đây), núi Két (còn gọi là Anh Vũ Sơn hay núi Ông Két ở thị trấn Nhà Bàng thuộc thị xã Tịnh Biên trước đây) ), núi Dài Năm Giếng (còn gọi là Ngũ Hồ Sơn hay núi Dài nhỏ ở xã Thới Sơn thuộc thị xã Tịnh Biên trước đây), núi Cô Tô (còn gọi là Phụng Hoàng Sơn ở xã Cô Tô thuộc huyện Tri Tôn trước đây), núi Tượng (còn gọi là Liên Hoa Sơn ở thị trấn Ba Chúc thuộc huyện Tri Tôn trước đây), núi Nước (còn gọi là Thủy Đài Sơn ở thị trấn Ba Chúc thuộc huyện Tri Tôn trước đây), núi Dài (còn gọi là Ngọa Long Sơn ở xã Châu Lăng, Lương Phi, Lê Trì và một phần thị trấn Ba Chúc thuộc huyện Tri Tôn trước đây). Thực tế, trong tâm thức của người dân miền Tây bảy ngọn núi ấy được gọi là “bửu sơn” (từ bửu có nghĩa tương đồng với bảo, với ý chỉ sự quý giá như bảo vật nhằm thể hiện sự yêu quý, trân trọng). Bảy ngọn núi ấy là miền đất tâm linh với những non thiêng huyền bí; là nơi trấn giữ linh hồn ở vùng biên viễn Tây Nam.

Bảy ngọn núi linh thiêng ở Thất Sơn, cao nhất là núi Cấm. Ngọn núi này cao hơn bảy trăm mét, được ví là nóc nhà của miền Tây và được xem là trái tim của vùng Bảy Núi. Người ta truyền rằng, thời xưa, núi Cấm rất hoang vu, sơn lam chướng khí và có nhiều thú dữ. Bởi thế khi Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây Sơn truy quét đã phải chạy về đây lánh nạn. Khi ở trên núi, ông đã ra lệnh cho quân lính ngăn chặn mọi người không được qua lại để tránh bị phát hiện. Bởi vậy người ta gọi núi là núi Cấm. Nay trên núi vẫn còn điện thờ Nguyễn Phúc Ánh. Nhưng cũng có người kể rằng, núi Cấm xưa kia có rất nhiều thú dữ, nơi có bạch hổ sinh sống nên người ta cấm dân đến đây để đảm bảo an toàn nên gọi là núi Cấm. Có lẽ tin vào điều này mà ngày nay trên núi người ta lập rất nhiều hang ông Hổ để thờ cúng.

Rồi lại còn thuyết thầy Tây An (Đoàn Minh Huyền) sợ các tín đồ của mình làm am, lập miếu đánh mất sự trong lành, linh thiêng của ngọn núi nên đã cấm không cho mọi người lên núi nên núi có tên gọi là núi Ông Cấm, sau gọi gọn lại là núi Cấm. Chỉ một cái tên gọi thôi mà đã có bấy nhiêu cách giải thích, rất thu hút sự tò mò, quả là rất thú vị. Thực hư của những huyền thoại đó ra sao thật khó minh định nhưng có một sự thực là cảnh quan của quả núi rất đẹp. Trên núi có nhiều cây trái, hang động, thác suối do vậy mà rất thuận lợi cho việc sống ẩn dật hay tiến hành lập căn cứ kháng chiến. Bởi thế, núi Cấm đã được lựa chọn làm nơi tu tập, hành hương, thờ cúng và cũng là nơi phát tích của những câu chuyện mang màu sắc tâm linh, huyền bí. Điều ấy, tất nhiên cũng dễ hiểu.

So với Thiên Cấm Sơn, núi Két không cao bằng. Độ cao của núi Két chỉ vào khoảng gần hai trăm ba mươi mét. Tuy vậy núi Két lại được nhiều người biết đến bởi đây là một địa điểm có rất nhiều nơi vãng cảnh và chiêm bái linh thiêng, ví như Sân Tiên, Giếng Tiên, điện Phật Mẫu, điện Ngọc Hoàng, điện Chư Thần, điện Phật Thầy, điện Huỳnh Long, điện Ba Cô, điện U Minh, điện Chư Vị Năm Non Bảy Núi và mỏ ông Két. Tên gọi núi Két được bắt nguồn từ hình dáng của một chóp núi bên vách phía Tây. Đó là một tảng đá khổng lồ nằm nhô ra có hình dạng giống như đầu con chim két, còn gọi là chim Anh Vũ, cũng bởi đặc điểm này mà người ta gọi tên núi là núi Két. Tuy nhiên, ngoài đặc điểm tự nhiên này ra, người ta còn giải thích bằng một huyền thoại khác, ly kỳ hơn Chuyện kể rằng, xưa kia, đỉnh núi Két là nơi trú ngụ của một con chim két khổng lồ từ thiên đình bay xuống. Con két này có bộ lông rực rỡ và có tiếng hót vang vọng. Hằng ngày, nó luôn hướng mặt về phía đồng bằng như thể canh gác, bảo vệ sự bình yên cho người dân. Tuy nhiên trong dân gian đồn rằng có sấm truyền, nếu mỏ ông Két hướng về núi Cấm thì thiên hạ sẽ có biến động. Thế đấy, núi Két không chỉ có những huyền thoại ly kỳ mà còn gắn liền với lịch sử lưu dân đi mở cõi. Người dân Tịnh Biên vẫn nhắc nhau rằng, Phật Thầy Tây An khi đến núi Két tu luyện, ông thương dân nghèo khổ nên đã cùng các môn đồ của mình tiến hành khai hoang, phục hóa miền chân núi. Dưới đôi bàn tay lao động cần cù của mình, những người đi mở cõi này đã biến các đầm lầy, rừng rậm hoang vu quanh núi thành những cánh đồng trù phú, màu mỡ của các làng Hưng Thới và Xuân Hưng.

Cùng trong quần thể núi non linh thiêng ở thị xã Tịnh Biên (trước đây) còn có Núi Dài Năm Giếng. Núi này cũng chỉ cao hơn núi két một chút, khoảng hơn chục mét nhưng cũng là ngọn núi lung linh huyền thoại và chứa đựng không ít điều bí ẩn. Truyện dân gian vùng Thất Sơn kể lại rằng, thời tạo thiên lập địa, Thái Thượng Lão Quân đi qua vùng núi này, ông đã ấn năm ngón tay của mình ấn vào bãi đá để đánh dấu. Và ngay lập tức năm dấu ngón tay trên đá ấy biến thành năm cái giếng nhỏ. Nước trong những giếng này rất trong và không bao giờ cạn, tựa như giếng “không đáy”. Đấy là huyền thoại, còn thực tế những giếng nước này là những những khe nước nhỏ, ăn sâu vào trong lòng núi. Các mạch nước ở trong núi rỉ tràn ra như một khe suối, dâng nước lên khiến cho năm giếng nước này vơi rồi lại đầy ăm ắp. Và ngay bên gần cạnh giếng, người ta thấy có một phiến đá gần giống hình tròn, khá lớn, trên phiến đá có một vuông đá giống như cái ghế. Cái ghế ấy người dân trong vùng bảo xưa tiên xuống trần thường ngồi ở đấy nên gọi là “Đá Tiên Ngồi”.

Bên dòng kênh Vĩnh Tế

Bên dòng kênh Vĩnh Tế

Sang vùng đất của huyện Tri Tôn (trước đây), huyền thoại núi non của Thất Sơn có vẻ mê hoặc hơn bởi chất lãng mạn bay bổng. Nó bớt đi sự thâm u, rợn ngợp, huyền bí. Bắt đầu là núi Cô Tô. Núi này được ví như chốn bồng lai của xứ Bảy Núi bởi mây mù huyền ảo quanh năm ôm ấp. Với độ cao hơn sáu trăm mét ngọn núi này không chỉ là nơi ngắm ánh bình minh trên đỉnh núi mà còn được giới trẻ tìm đến để tận hưởng bầu không khí trong lành, mát mẻ. Và đó cũng là chốn săn mây vô cùng thú vị. Nhìn từ xa, người ta thấy núi Cô Tô như con chim phượng hoàng khổng lồ đang dang rộng đôi cánh ra giữa đồng lúa mênh mông. Và đứng trên núi ấy trời đang sáng bỗng nhiên thấy tối sầm bởi một đám mây nào đó vô tình dạo qua Nhưng rồi chỉ một chốc lát lại bừng lên ánh sáng tươi rói như thể có người vừa vén bức màn mây. Cũng có khi giữa trưa mây xanh, may trắng xà xuống, quấn quanh bên người. Khi ấy giơ tay ra, người ta có cảm giác như nắm được đám mây, mát lạnh. Người ta bảo, núi Cô Tô đẹp là do các Tiên ông tạo nên. Hồi ấy, thủa còn hỗn mang, các Tiên ông từ núi Cấm, núi Dài khiêng đá xếp chồng lên nhau mà tạo thành. Nhưng cũng có người kể, vào những đêm trăng sáng, các tiên nữ từ trên trời thường hay xuống vùng Thất Sơn vui đùa. Các nàng thường chơi trò ném đá. Và núi Cô Tô mọc lên chính là kết quả của một lần chơi ấy. Các viên đá được các nàng tiên ném ra, chất chồng lên nhau tạo thành ngọn núi với dáng hình vô cùng độc đáo, lúc thì trông như chiếc tô úp người, khi thì giống con chim phượng hoàng. Cô Tô thế đấy. Núi đẹp, chuyện hay. Hành hương, chiêm bái trên núi Cô Tô, ai cũng cảm thấy mê đắm.

Không cao như núi Cô Tô, núi Tượng thấp và nhỏ, độ cao chỉ một trăm bốn mươi lăm mét, chu vi cũng chỉ gần bốn ngàn mét. Tuy vậy ngọn núi này lại có một vẻ đẹp kỳ vĩ bởi những hang động sâu thẳm, không gian thanh tĩnh gắn liền với các ngôi ngôi đình, ngôi chùa cổ kính. Đến núi Tượng người ta sẽ dễ dàng trông thấy dáng hình quả núi giống như một con voi khổng lồ để rồi khỏi phải băn khoăn hỏi tại sao người ta lại gọi là núi Tượng. Vãng cảnh hay chiêm bái núi Tượng ta có thể được đắm mình, mãn nhãn với phong cảnh núi non, vườn tược, đồng ruộng xanh tươi bên núi; có thể nhìn thấy cánh đồng Tà Lơn của nước bạn Campuchia. Đặc biệt đến núi Tượng, ta sẽ có cơ hội để tìm hiểu về những ngày tháng bi hùng của người dân Ba Chúc trong những năm chiến tranh biên giới Tây Nam. Khmer Đỏ không chỉ thảm sát người Campuchia mà với Ba Chúc cũng đã có hơn ba nghìn dân thường bị giết hại. Hiện nay Nhà Mồ Ba Chúc vẫn còn đang trưng bày một nghìn một trăm năm mươi chín bộ hài cốt của các nạn nhân trong cuộc thảm sát này hồi tháng 4 năm 1978.

Cách núi Cô Tô không xa, nằm giữa trung tâm thị trấn Ba Chúc (trước đây) là ngọn núi Nước, núi thứ sáu trong “bửu sơn”. Núi Nước chỉ cao hơn năm chục mét và chu vi khoảng một ngàn mét. Nhìn ngọn núi có vẻ không hùng vĩ uy nghi nhưng trong tâm thức của người xứ Bảy Núi lại rất linh thiêng, mầu nhiệm. Đến ngọn núi đơn sơ ấy, ngay từ chân núi, ta sẽ được chiêm bái một ngôi chùa cổ có tên Linh Bửu Tự. Ngôi chùa được chính Đức Bổn sư Ngô Tự Lợi làm khi đưa dân đến đây khai hoang, lập làng An Định, truyền đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa và tổ chức kháng chiến chống Pháp. Trên ngọn núi còn có các điểm chiêm bái khác như sân Tiên, Thạch Bàn, hang Ông hổ, rùa đá thần, điện thờ trăm họ, miếu Bà…

Theo như lời kể của người dân xư này, tên gọi núi Nước được hình thành từ đặc điểm địa lý tự nhiên ở vùng này. Hàng năm, cứ vào mùa nước nổi, bốn phía xung quanh ngọn núi là một biển nước mênh mông. Giữa biển nước ấy duy nhất chỉ một mình ngọn núi nhô lên trơ trọi cho nên người dân địa phương mới gọi quả núi là núi Nước. Người ta cũng kể rằng, buổi đầu khẩn hoang, chống Pháp ở đây Đức Bổn sư Ngô Tự Lợi cùng các đệ tử của mình phải lấp hang Thuồng Luồng và chặt cây đa to, đào bỏ vật trấn yểm của người Tàu đem tiêu hủy để nhân dân được yên ổn làm ăn. Giờ đây, núi Nước không chỉ là một danh thắng linh thiêng mà còn là nơi lưu dấu các bậc tiền nhân của buổi đầu khẩn hoang, lập ấp, dựng chùa.

Khách du lịch viếng Sơn Lăng Thoại Ngọc Hầu

Khách du lịch viếng Sơn Lăng Thoại Ngọc Hầu

Cuối cùng là núi Dài. Đây là một ngọn núi dài nhất và cũng là một trong những ngọn núi đẹp nhất của vùng Thất Sơn. Núi Dài là điểm du lịch tuyệt đẹp cho những du khách muốn sống gần gũi với chốn thiên nhiên hoang sơ của núi rừng, yêu thích sự yên bình, tĩnh lặng. Núi Dài cũng là nơi lưu dấu những bản hùng ca bất diệt của dân tộc trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Người ta gọi tên núi là núi Dài không dựa vào chiều cao mà căn cứ vào chiều dài. Chiều cao của núi chưa đến sáu trăm mét nhưng chiều dài của núi trải ra đến hơn tám cây số. Từ xa trông lại dải núi nằm trên địa bàn ba xã hiện lên với một màu xanh mướt, nhìn giống một con rồng khổng lồ đang nằm. Bởi vậy người ta còn gọi núi Dài với một cái tên khác là Ngọa Long Sơn. Thăm quan núi Dài cũng là một hành trình về nguồn lý thú.

Từ Ô Sình, theo con đường lên núi quanh co, ta sẽ được chiêm ngưỡng một phong cảnh núi rừng hoang vu rất đẹp, cây cối mướt xanh. Dọc bên đường đi là những rừng tầm vông san sát cùng với những vườn xoài cổ thụ, vườn tràm bông vàng, vườn vú sữa, vườn mít, vườn hồng quân … mùa nào trái ấy xum xuê. Nhìn xuống chân núi là suối Vàng, suối Bạc nước chảy róc rách, trong veo. Xa xa, thấp thoáng là những mái nhà ẩn hiện trong những vườn cây của bà con người Khmer. Trên núi Dài có hai di tích lịch sử thời chống Mỹ gắn liền với những câu chuyện rất cảm động, thương tâm. Đó là đồi Ma Thiên Lãnh với sự hy sinh của bảy chiến sĩ bộ đội người miền Bắc (thuộc đại đội 8, tiểu đoàn 5, đoàn 61C) vào hồi tháng 9 năm 1970.

Ngày ấy, đế quốc Mỹ đã dùng máy bay VO10 bắn rốc-két, đánh bom làm sập miệng hang Ma Thiên Lãnh khiến bảy đồng chí giải phóng quân bị mắc kẹt. Đồng đội giải cứu không được, phải lén lút đưa cơm, tiếp nước xuống hang. Việc ấy diễn ra trong bốn ngày nhưng cũng không cứu được. Cuộc chiến đấu ngày càng ác liệt, đơn vị cuối cùng đành ngậm ngùi chia tay. Phải đến tận ba mươi tám năm sau, ngày 14 tháng 6 năm 2007, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh An Giang mới tiến hành phá cửa hang và đưa bảy bộ hài cốt ra ngoài. Cùng với di tích Ma Thiên Lãnh là căn cứ Ô Tà Sóc, nơi làm việc của Tỉnh ủy An Giang. Do nằm ở điểm cao chạy dọc trên sườn núi, xung quanh có rừng cây che chắn, trên núi có nhiều hang động, địa hình tự nhiên hiểm trở nên Ô Tà Sóc có vị trí địa thế chiến lược đặc biệt quan trọng và đã trở thành một căn cứ để tổ chức chỉ đạo và chiến đấu của quân ta. Tại đây Tỉnh ủy và quân dân An Giang đã đánh bại nhiều cuộc tấn công, càn quét của Mỹ- Ngụy làm tiêu hao sinh lực của kẻ địch góp phần làm nên mùa xuân chiến thắng năm 1975.

2. Thất Sơn với hình sông (kênh)

An Giang được biết đến là vùng đầu nguồn của sông Tiền và sông Hậu cùng với một hệ thống kênh rạch chằng chịt. Nhưng dường như vùng đất Thất Sơn lại hay nhắc đến Vĩnh Tế Hà (kênh Vĩnh Tế) hơn là hai con sông từng làm nên một châu thổ rộng lớn ở phương Nam, đồng bằng sông Cửu Long. Khác với những dòng sông và con rạch tự nhiên khác, Vĩnh Tế Hà là kênh nhân tạo, một dòng kênh đào. Một kênh đào nổi tiếng ở phương Nam và gắn liền với tên tuổi của vợ chồng danh thần nhà Nguyễn là Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu) và Châu Vĩnh Tế.

Kênh Vĩnh Tế được bắt đầu từ bờ Tây sông Châu Đốc (thuộc thành phố Châu Đốc trước đây) và kết thúc ở đoạn nối vào sông Giang Thành (thuộc thành phố Hà Tiên trước đây). Từ nơi bắt đầu cho đến khi kết thúc, kênh Vĩnh Tế chảy qua phần lớn đất đai của xứ Thất Sơn. Người ta kể rằng, khi chưa có kênh Vĩnh Tế, vào mùa nước nổi vùng Thất Sơn bị úng lụt rất lâu do địa hình thấp. Và từ khi có kênh Vĩnh Tế, lũ thoát nhanh hơn. Không những vậy dòng kênh còn đem đến dòng nước ngọt ngào và góp phần tháo chua rửa phèn, bồi đắp phù sa cho cho những cánh đồng mênh mông bên dọc đôi bờ mà nó đi qua, đem lại sự trù phú cho không ít vùng đất xa xôi, hoang hóa. Chẳng những thế, kênh Vĩnh Tế còn được xem là “mũi kim” khai thông “huyệt đạo” cho mạch máu giao thông từ Châu Đốc về Hà Tiên, nhất là thời trước khi giao thông đường bộ còn chưa phát triển. Đặc biệt, dòng kênh chạy song song với đường biên giới Việt Nam và Cam pu chia cho nên nó còn được ví như một vành đai biên giới và có vai trò như một chiến hào nhân tạo, một “hàng rào nước” trong việc phòng thủ biên giới, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Ngoài ra, khi cần thiết dòng kênh cũng là một con đường để thủy quân phối hợp cùng với bộ quân tiến hành tác chiến bảo vệ biên cương. Mục đích ấy không chỉ có ý nghĩa với triều đình nhà Nguyễn và với cả ngày nay, giá trị của dòng kênh vẫn không hề thay đổi.

Kênh Vĩnh Tế dài hơn chín mươi cây số, trung bình rộng khoảng ba mươi mét, sâu gần ba mét; được làm thủ công (đào bằng tay với các dụng cụ rất thô sơ) trong 5 năm, từ năm 1819 đến năm 1824. Theo ước tính của giới nghiên cứu, để hoàn thành con kênh này, triều đình nhà Nguyễn đã phải huy động khoảng gần 90.000 dân binh, đào 2.845.035 mét khối đất, với 3463500 ngày công. Người ta kể rằng, để hoàn thành dòng kênh, chỉ huy công trình chính là Thoại Ngọc Hầu đã cho dân binh làm ngày làm đêm. Và để dòng kênh được hoàn thành sớm nhất về thời gian, nhằm hạn chế tối đã sức người sức của, đòi hỏi đào kênh phải thẳng. Thoại Ngọc Hầu đã cho dân binh phát quang lau sậy, dùng dây thừng căng thẳng để làm dấu mốc. Đặc biệt ban đêm, Thoại Ngọc Hầu cho “rẽ sậy rạch hoang” đốt đuốc trên đầu những cây sào, rồi ngắm theo hình chiếu ba điểm để cắm cọc mốc. Sau đó dùng dây thừng nối các cọc mốc lại với nhau để đào cho được thẳng. Đặc biệt, để điều khiển những cây "sào lửa" ấy cho thật thẳng hàng, những thợ đào mương phải cầm một cây rọi to, đứng trên cao phất qua phất lại ra hiệu cho người cầm sào tìm đúng vị trí rồi mới cắm cọc mốc.

Có thể nói kênh Vĩnh Tế hoàn thành là một minh chứng cho sự sáng tạo, tài giỏi của người Việt Nam trên hành trình chinh phục thiên nhiên. Đồng thời, dòng kênh ấy cũng thể hiện một tầm nhìn chiến lược của triều Nguyễn. Nó vừa khẳng định chủ quyền lãnh thổ vừa mở mang giao thông phát triển kinh tế, bang giao và củng cố sức mạnh quân sự nơi miền biên viễn Tây Nam. Ngoài ra, nó còn phản ánh một quá trình lao động không ngừng không nghỉ trên hành trình mở cõi, khai khẩn vùng đất phương Nam của lớp lớp các tiền nhân. Đặc biệt dọc bên đôi bờ của dòng kênh đã có không ít những làng, những ấp được mọc lên trù phú. Đúng như lời vua Gia Long bảo các thị thần rằng: “Đất này nay mở đường sông để đi thẳng tới Hà Tiên, làm ruộng đi buôn đều được lợi cả. Sau này dân ở đông đúc, đất mở rộng rãi, có thể thành một trấn to lớn”. Có lẽ, cũng bởi ý nghĩa quan trọng và thành công như mong đợi mà năm 1836, vua Minh Mạng đã cho khắc hình kênh Vĩnh Tế vào Cao Đỉnh, đặt trước sân Thế Miếu trong Hoàng thành Huế.

Bên lăng mộ Thoại Ngọc Hầu

Bên lăng mộ Thoại Ngọc Hầu

Nhắc đến kênh Vĩnh Tế người ta không quên nhắc đến công lao của hai vợ chồng danh thần Thoại Ngọc Hầu. Ông là người chỉ huy chính công trình này. Trước kênh Vĩnh Tế, Thoại Ngọc Hầu cũng là người được triều đình giao cho chỉ đạo đào kênh Đông Xuyên – Rạch Giá (kênh dài hơn ba mươi cây số, rộng năm mươi mốt mét, kênh được làm vào mùa xuân năm 1818, làm trong một tháng, điểm đầu thuộc ở thành phố Long Xuyên điểm cuối ở thành phố Rạch Giá). Khi kênh làm xong, triều đình đã lấy tên ông để đặt tên cho dòng kênh. Dòng kênh Đông Xuyên – Rạch Giá hay còn gọi là kênh Tam Khê được đổi tên thành kênh Thoại Hà. Theo đó, để công trình kênh Vĩnh Tế hoàn thành, người ta kể, bà Châu Thị Tế (vợ cả của Thoại Ngọc Hầu) đã có công rất lớn trong việc giúp chồng đào kênh.

Trong 5 năm làm kênh bà không chỉ đảm đương chu đáo công việc hậu cần cho dân binh ngoài công trường mà còn động viên tinh thần dân binh và các thân nhân của họ. Những người ốm đau, không may bị nạn bà hết sức chăm lo việc ăn uống, thuốc men chữa trị. Thậm chí có lúc chồng bận việc triều đình đi công cán, bà còn trực tiếp đứng ra đôn đốc, chỉ đạo việc đào kênh. Bởi vậy, đương thời nhân đức của bà đã được nhân dân hết lời ca tụng: “Nước Nam trai sắc gái tài/ Gương bà Châu thị lưu đời ngàn năm”. Tiếng thơm ấy bay đến triều đình Huế. Bởi thế vua Minh Mạng đã cho lấy tên bà đặt tên cho dòng kênh: Vĩnh Tế Hà (tên bà là Châu Thị Tế, bà là con gái của dòng họ Châu Vĩnh có tiếng trong vùng Vĩnh Long xưa). Không những thế, tên thơm của hai vợ chồng Thoại Ngọc Hầu, ngày nay, trong vùng và nhiều nơi khác, được dùng để đặt tên đường, tên phố, trường học, thậm chí cả tên làng, tên huyện.

Kể về kênh Vĩnh Tế trên đất Thất Sơn cũng không thể không nhắc đến những dân binh xấu số phải bỏ mạng. Không có con số thống kê chính thức nhưng có lẽ rất nhiều. Người thì bỏ mạng vì tai nạn, kẻ thì ốm đau do gặp phải sơn lám chướng khí, rừng thiêng nước độc. Nhưng cũng có không ít người vì sợ vất vả, bệnh tật mà bỏ trốn để lại bị rơi vào miệng cá sấu hay hổ báo trong rừng. Nghe nói, ngày khánh thành dòng kênh, Thoại Ngọc Hầu đã cho người đi dọc con kênh quy tập các hài cốt dân binh xấu số về chôn cùng ở Sơn Lăng của mình, dưới chân núi Sam (gọi là nghĩa trủng Vĩnh Tế). Chẳng những thế, “thừa đế linh”, ông còn tổ chức tế lễ cho các cô hồn tử nạn và làm một bài văn tế rất xúc động, trong đó có đoạn: “Trời xanh thẳm mồ hoang lợp lợp/ Trăng soi nhòa mấy lớp bia tàn/ Mây che bao nấm đất vàng/ Sương sa sao giọi gò hoang đổi dời/ …./ Đào kinh trước, mấy kỳ khó nhớ/ Khoác nhung y chống đỡ biên cương/ Xông pha máu nhuộm chiến trường/ Bọc thây da ngựa, gửi xương xứ này/ Quê cách trở, lấy ai hộ tống,/ Sống làm binh, thác chống quỷ ma./ Than ôi, ai cũng người ta,/ Mà sao người lại thân ra thế này?/ …/ Giờ ta vâng lệnh bệ rồng,/ Dời ngươi an táng nằm chung chốn nầy/ Chọn đất tốt thi hài an ổn,/ Cảnh trời thanh vui nhộn cùng nhau./ Hằng năm cúng tế dồi dào,/ Tràn trề lễ trọng dám nào để vơi...”.

Sau ngày Thoại Ngọc Hầu qua đời, tưởng nhớ công ơn của ông, người dân ở Thất sơn đã lập đền thờ ông tại phường Núi Sam (thành phố Châu Đốc), lập đình thần Thoại Ngọc Hầu (thị trấn Núi Sập huyện Thoại Sơn). Đến nay, hàng năm, dân An Giang vẫn tổ chức giỗ lễ ông chu đáo. Đến viếng ông, ngắm nhìn Sơn Lăng uy nghi trong không gian trầm hương thoang thoảng, ngẫm nghĩ mà càng thấm câu nói của dân gian: “Thương dân, dân lập đền thờ/ Hại dân, dân đái ngập mồ thối xương”. Âu đó cũng là cái luật nhân quả của đời.

Đi dọc dòng kênh Vĩnh Tế, từ Hà Tiên lên Châu Đốc, theo quốc lộ N1, tôi mê mải ngắm nhìn dòng kênh với những con thuyền chất đầy thóc mới xuôi ngược. Cũng bên đôi bờ kênh ấy còn mở ra trước mắt tôi mênh mang những đồng lúa chín vàng cùng với những hàng cây thốt nốt soi bóng trong nắng chiều giòn tan của miền đất huyền thoại Bảy Núi. Núi cao, kênh dài dường như nơi nào tôi cũng thấy dấu tích của những người đi mở cõi. Và trong nắng gió biên thùy của vùng đất Tây Nam, dâng nén trầm nhang, ta không khỏi ngậm ngùi biết ơn và thương nhớ những bậc tiền nhân đã từng một thời làm nên đất nước dài rộng và trù phú, xanh tươi cho con cháu muôn đời thượng hưởng.

Phan Anh - Thu Hiền

Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/that-son-dang-nui-hinh-song-a29909.html