Tôi đã sống trọn một ngày ở thành phố xa lạ đó. Một ngày, đủ để tôi không còn bất ngờ nếu thấy giữa những tòa cao ốc bỗng có mấy ngôi nhà kiểu cổ với những diềm mái cong lên, không ngạc nhiên khi đang đi trên con đường xe cộ tuôn trào gầm gào bất chợt rẽ vào ngỏ hẻm, bất chợt vắng lặng, hanh hao với những hàng rào gỗ, những dây leo, bầy chim sẻ ríu ran trên mái rêu.
Những ngày giáp Tết, nghĩ đến việc được đi chợ, đứa trẻ nào cũng háo hức. Dù chỉ được mua một cái áo mới, mấy chị em cũng hồi hộp tới mấy đêm liền.
Thế là mưa đã về, nhắc cho chúng ta biết mùa mưa bão đã chính thức bắt đầu. Mưa khiến người Hà Nội lại chứng kiến cảnh 'sông trong phố' và 'lướt sóng trên đường nhựa'. Nhưng mưa cũng 'phân đoạn' những ngày nắng nóng rừng rực, sẻ chia bớt cả nỗi lo mất điện, thiếu điện đang thường trực phấp phỏng trong lòng người Hà Nội mỗi mùa hạ về.
Hồi nhỏ, tôi mê món cơm rượu lắm. Ngày thường ít ai làm cơm rượu, chỉ tới Tết mới có. Vậy nên mỗi lần Tết sắp đến, tôi cứ nhũng nhẵng theo đuôi mẹ nhắc… làm cơm rượu! Nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần tới lúc mẹ bực mình quát 'nhớ rồi!' mới thôi. Thật tình, chẳng phải tôi muốn chọc giận mẹ làm chi, do món cơm rượu phải chờ cận Tết mới làm nên có năm lu bu công chuyện cuối cùng mẹ quên phứt mất. Với tôi, Tết mà không có món cơm rượu là coi như… mất nửa cái Tết, hỏi sao không lo?
Tất cả đều cũ và tàn tạ đi kể từ lần vợ chồng tôi dọn nhà khỏi chốn này. Duy cây Mộc hương lớn phổng lên và đang kỳ trổ hoa, mùi hương ngòn ngọt lan tỏa ngào ngạt khắp không gian chật hẹp. Nó khiến tâm trạng tôi chùng hẳn, mềm đi sau khi thở dài trước những thứ xộc xệch đập vào mắt. Tôi đã rất ngần ngừ với việc có nên mang cây Mộc hương đi cùng hay không. Bởi khi trồng nó xuống, tôi không ngờ ngày mình dọn đi đến sớm như vậy.
Hồi những năm mới giải phóng Thủ đô, bến tàu điện hồ Hoàn Kiếm trước cửa tòa nhà 'hàm cá mập' ngày nay có mấy rạp chiếu bóng lưu động mà chúng tôi hay gọi là 'Cinema thùng'. Hình ảnh, ký ức về những rạp chiếu bóng lưu động ấy cho đến giờ vẫn còn in đậm dấu ấn mờ ảo của tuổi học trò.
Với những người con xa quê, có lẽ Tết mãi mãi ngưng đọng lại ở một khoảnh khắc đẹp tươi nào đó trong quá khứ. Với tôi, đó mãi mãi là khoảnh khắc một buổi chiều cuối năm ấm áp, khi ánh nắng vàng như rót mật chiếu chênh chếch bên hiên nhà, dưới mái ngói đỏ cũ kỹ đã mọc rêu xanh, bóng lưng bố vững chãi và ấm áp, ngồi dịu dàng nhặt tóc sâu cho mẹ…
Chẳng riết róng lạ hóa hình tượng nghệ thuật, chẳng vân vi câu chữ cho nó mang vẻ văn, cũng chẳng kiểu cách triết lý chồng lấp như diễn ngôn trong các truyện ngắn đương đại, vẻ đẹp của văn Chu Bá Nam nằm ở khả năng thấu cảm, gợi mở cho người đọc thấy có một cái gì còn cao hơn, rộng hơn, sâu hơn ẩn đằng sau những câu chuyện đời thường.
Tôi luôn tự thấy mình là dân Quảng Nam trong khi tôi hầu như chẳng sống hay lớn lên ở đó. Từ khi còn được mẹ bồng trên tay, tôi đã cùng cha mẹ và hai chị trở thành công dân Đà Nẵng - loại dân-hồi-cư, sau nhiều năm gia đình tản cư từ Quảng Nam và trở về từ Bình Định. Vậy mà trong tôi có gì đó cứ đinh ninh rằng mình là dân Quảng-Nam-rặt. Chuyện này chắc chắn có phần quyết định từ mẹ tôi.
Mỗi khi Tết về là nỗi nhớ quê hương như cồn cào, da diết. Bao hoài niệm lại về một thuở chờ mẹ gói bánh chưng sắn gắn bó với tuổi thơ gian khó. Sau đây là những chia sẻ rưng rưng cảm động của chị Usuzumi Haresa - kiều bào tại Nhật Bản.