Sự thật ấn cổ nổi tiếng ở đền Trần

Đền Trần Nam Định nổi tiếng khắp nước với lễ khai ấn đầu năm. Chuyện chiếc ấn ở ngôi đền này cũng có nhiều điều ly kỳ, đáng nói.

Sau cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ nhất, năm 1239, vua Trần mở tiệc chiêu đãi và phong chức cho các quan tại phủ Thiên Trường. Việc phong chức thực hiện bằng việc khai ấn, đóng vào các sắc phong. Ít năm sau đó, với cuộc chiến chống quân Nguyên Mông, lễ khai ấn bị gián đoạn tới năm 1262, Thượng hoàng Trần Thánh Tông cho mở lại. Rồi thời gian và chiến tranh lại xóa nhòa tất cả.

Năm 1822, vua Minh Mạng cho khắc lại ấn và mở lại lễ khai ấn. Tại phủ Thiên Trường vào lúc bắt đầu giờ Tý ngày 15 tháng giêng hằng năm. Tuy nhiên ấn bây giờ chỉ còn mang tính biểu tượng, trên ấn chỉ khắc chữ “Trần triều điển cố”. Rồi chiến tranh và thời gian làm cho lễ khai ấn rơi vào quên lãng, ấn lại bị thất lạc.

Mãi đến một hai chục năm trở lại đây, lễ khai ấn được phục dựng trở lại với quy mô lớn. Nhiều người quan niệm, muốn thăng quan tiến chức phải đến xin bằng được tờ ấn sớ đền Trần. Và tối 14 tháng giêng hằng năm, người ta lại đổ về đây đông nườm nượp chờ lấy được một tờ ấn sớ, hy vọng sẽ đem lại may mắn trên đường công danh.

Trước khi lễ khai ấn được tổ chức, vào ngày mùng 2 tháng Giêng, Ban quản lý Khu di tích đền Trần thực hiện nghi lễ xin mở ấn để in các lá ấn phục vụ lễ khai ấn. Nội dung lá ấn bao gồm các chữ: “Trần triều điển cố – tích phúc vô cương”’.

Đến 22h ngày 14 tháng Giêng, lễ khai ấn được bắt đầu với nghi thức rước hòm ấn từ nội cung đền Cố Trạch sang đền Thiên Trường. Sau khi lễ khai ấn được thực hiện bởi 14 cụ cao niên thôn Tức Mặc (phường Lộc Vượng) kết thúc, khách thập phương vào đền Thiên Trường để tế lễ, xin lá ấn với mong muốn một năm mới thành đạt và phát tài.

Không phải ai về xin ấn đền Trần cũng hiểu được hết ý nghĩa của nghi lễ này. Bản chất của bốn chữ “Tích phúc vô cương” trên ấn là Nhà Trần ban cho con cháu cái phúc, dạy con cháu, bách gia trăm họ phải biết giữ gìn phẩm chất đạo đức, tích phúc thật tốt, phúc đức càng dầy thì được hưởng lộc càng bền vững. Đấy là ý nghĩa giáo dục sâu sắc nhất của việc ban ấn.

Ý nghĩa của ấn chỉ đơn giản như vậy nhưng không phải ai cũng hiểu mà vẫn còn một số lầm tưởng rằng, xin ấn để cầu “thăng quan, tiến chức”. Vì vậy, những ai cầm ấn trong tay mà không hiểu bản chất ý nghĩa sâu sắc đó thì ấn cũng chẳng có giá trị gì.

Đền Trần là một quần thể đền thờ tại đường Trần Thừa, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định (sát quốc lộ 10), là nơi thờ các vua Trần cùng các quan lại có công phù tá nhà Trần. Đền Trần được xây dựng từ năm 1695, trên nền Thái miếu cũ của nhà Trần đã bị quân Minh phá hủy vào thế kỷ XV.

Đền Trần bao gồm 3 công trình kiến trúc chính là đền Thiên Trường (hay đền Thượng), đền Cố Trạch (hay đền Hạ) và đền Trùng Hoa. Cả ba đền đều có kiến trúc chung, và quy mô ngang nhau. Mỗi đền gồm tòa tiền đường 5 gian, tòa trung đường 5 gian và tòa chính tẩm 3 gian. Nối tiền đường và trung đường là kinh đàn (thiêu hương) và 2 gian tả hữu.

Đền Thiên Trường được xây trên nền Thái miếu và cung Trùng Quang của nhà Trần mà trước nữa là nhà thờ họ của họ Trần. Cung Trùng Quang là nơi các Thái thượng hoàng nhà Trần sống và làm việc. Đền Trần hiện nay được người dân địa phương xây bằng gỗ từ năm Chính Hòa thứ 15 (tức năm 1695). Các năm 1773, 1854, 1895, 1907-1908, đền được mở rộng và xây thêm.

Đền Cố Trạch được xây vào năm 1894. Đền Cố Trạch đặt bài vị của Trần Hưng Đạo, gia đình và gia tướng. Tiền đường của đền Cố Trạch là nơi đặt bài vị của 3 gia tướng thân tín của Trần Hưng Đạo, đó là Phạm Ngộ, Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa.

Thiêu hương (kinh đàn) là nơi đặt long đình trong có tượng Trần Hưng Đạo cùng 9 pho tượng Phật. Bên trái đặt bài vị các quan văn. Bên phải đặt bài vị của các quan võ.

Đền Trùng Hoa mới được chính quyền tỉnh Nam Định với sự hỗ trợ về kinh phí của Chính phủ xây dựng từ năm 2000. Đền được xây trên nền cung Trùng Hoa xưa - nơi các đương kim hoàng đế nhà Trần về tham vấn các vị Thái thượng hoàng. Trong đền Trùng Hoa có 14 pho tượng bằng đồng của 14 hoàng đế nhà Trần đặt tại tòa trung đường và tòa chính tẩm.

1. Có mấy loại ấn liên quan đến Lễ khai ấn đền Trần?

A. 1

B. 2

C. 3

C là đáp án đúng. Chiếc ấn ngày nay đang được “đóng” vào các ấn sớ phát cho dân trong lễ khai ấn không phải mang chữ “Trần triều điển cố” (được cho là đã bị thất lạc) như trong sử sách ghi về vua Minh Mạng năm 1822, mà lại là chữ “Trần miếu tự điển”, có ý chỉ là chiếc ấn của miếu này chứ không phải là ấn ngày xưa của vua từng khai ấn. Bên cạnh đó, chiếc ấn đền Trần còn thêm ly kỳ khi năm 2009, người ta còn phát hiện thêm một chiếc ấn khác tại điện Vạn Lộc. Theo PGS.TS Tống Trung Tín cho biết, số ấn tại điện Vạn Lộc là 11 chiếc. Tất cả đều được làm bằng gỗ thị, trong đó quý nhất là chiếc ấn Trần Triều quốc bảo có hình vuông (13,5cm x 13,5cm), chạm giật cấp ít tầng (dày 3,5cm, rìa cạnh để cỡ 0,9cm) được làm bằng gỗ, toàn bộ được sơn son thiếp vàng nhưng đã bị bong tróc nhiều chỗ. Mặt ấn có 4 chữ Trần Triều quốc bảo (ấn báu triều Trần) được khắc kiểu chữ triện (cỡ chữ 5,3cm x 5,3cm). Núm của ấn khắc hình “sư tử hý cầu”, dáng sư tử thon khỏe, đầu ngẩng cao hướng về phía trước, dáng vẻ sinh động. Ông Nguyễn Văn Thư - Giám đốc Bảo tàng Nam Định, một thành viên trong đoàn nghiên cứu ấn Trần Triều quốc bảo - và nhiều cụ cao niên trong làng thì các con dấu, ván khắc tại điện Văn Lộc do cụ Tuần phủ Thái Bình Trần Gia Du (người dân nơi đây hay gọi là Do) mang về. Chiếc ấn Trần Triều quốc bảo này còn cổ hơn và quý hơn chiếc ấn Trần miếu tự điển đang được thờ tại đền Trần. Nhiều người còn đặt vấn đề có nên đưa ấn này lên đền Trần, thay cho chiếc ấn đang sử dụng hiện nay hay không?

2. Một nghi lễ không thể thiếu mới được thực hiện gần đây tại Lễ hội đền Trần là gì?

A. Rước nước

B. Tế cá

C. Cả hai điều trên

C là đáp án đúng. Theo tích cổ, cách đền Trần hơn trăm mét có một giếng cổ, nước trong như nước mưa. Người ta lấy nước từ giếng, rước về đền làm lễ. Ngày nay, giếng cổ còn đó, nước giếng vẫn trong vắt, uống ngay được. Mới đây, việc trùng tu hoàn tất, và lễ “rước nước, tế cá” được tổ chức lại sau hàng trăm năm vắng bóng. Ngày 12 tháng giêng âm lịch, tiến hành lễ “rước nước, tế cá”. Nghi lễ bắt đầu được thực hiện tại đền Cố Trạch bắt đầu từ 6 giờ sáng. Đoàn rước gồm 250 người sẽ tham gia tái hiện các nghi lễ truyền thống vốn đã được thực hiện từ xa xưa tại đền Trần, bao gồm các nghi thức như rước kiệu ra Giếng cổ, lấy nước, đánh bắt và rước cá về đền Thiên Trường. Tại đây sẽ thực hiện nghi thức dâng nước, tế cá, sau đó phóng sinh ra sông Hồng, khu vực phà Hữu Bị.Ý nghĩa của lễ rước nước, tế cá nhằm tri ân công lao của triều đại nhà Trần, tôn vinh nền văn minh lúa nước, đồng thời là một nghi lễ đầu năm mới cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.

3. Sau khi vua cha Trần Duệ Tông tử trận, con trai Trần Hiện lên ngôi, lấy hiệu là Trần Phế Đế. Trước việc vua Chiêm liên tục đánh phá Đại Việt, vua Trần Phế Đế đã làm gì?

A. Tập hợp quân sĩ đánh trả

B. Sai người mang tiền vàng đi cất giấu

B là đáp án đúng. Trần Phế Đế sinh năm 1361, tên húy Trần Hiện, là con thứ của vua Trần Duệ Tông và hoàng hậu Lê thị. Sau khi Duệ Tông tử trận ở Chiêm Thành vào năm 1377, Phế Đế được thượng hoàng Nghệ Tông đưa lên ngôi. Khi ấy ông mới 16 tuổi, mọi quyền hành vẫn do thượng hoàng nắm giữ.Nhân đà chiến thắng vua Duệ Tông, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga liên tục kéo quân tiến đánh và cướp phá Đại Việt. Năm 1378, quân Chiêm từ phía nam tấn công ra bắc, chiếm cả kinh thành Thăng Long. Vì lo sợ giặc cướp, vua Trần Phế Đế đã hai lần sai người mang tiền vàng đi giấu.Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Tháng 9/1379, vua sai quân dân chở tiền đồng giấu vào núi Thiên Kiện (trước gọi là núi Địa Cận, tục truyền có cây tùng cổ, rồng quấn ở trên, Trần Thái Tông dựng hành cung ở đó). Mùa đông, tháng 10, giấu tiền vàng ở khám Khả Lãng thuộc Lạng Sơn, vì sợ nạn người Chiêm đốt cung điện”.Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn: “Thiên Tử có cả bốn biển, kho tàng phủ khố đâu chẳng phải là của mình. Đương khi nước nhà nhàn hạ thì làm tỏ chính mình, sửa sang lễ nghĩa, ví như con chim đi lấy rễ dâu rang buộc cửa tổ, thì ai làm nhục mình được. Thế mà sợ nạn Chiêm Thành đốt cướp, đem chở tiền của giấu tận hang cùng núi thẳm, làm kế tránh giặc, thực là nhử giặc đến, chuốc lấy tiếng cười chê của đời sau”.

4. Vì quá tin dùng Hồ Quý Ly, thượng hoàng Trần Nghệ Tông nghe lời xúi giục, truất ngôi và bức tử Trần Phế Đế. Được nhiều quân sĩ giúp đỡ, nhưng vì sao Phế Đế vẫn có kết cục bi thảm?

A. Không muốn trái ý vua cha

A là đáp án đúng. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông quá tin dùng ngoại thích là Quý Ly dẫn đến cảnh giết hại cả tôn thất. Trần Phế Đế hiểu được mối nguy hại mang tên Quý Ly nên có âm mưu trừ bỏ. Biết được tin đó, Quý Ly nghe theo lời khuyên của Phạm Cự Luận, gièm pha và khuyên Nghệ Tông không nên bỏ con mà lập cháu làm vua.Nghệ Tông nghe xong thấy có lý liền phế truất Phế Đế và sai người giam ông lại. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, khi đó (năm 1388), tướng chỉ huy các phủ quân cũ như Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, Nguyễn Kha, Lê Lặc, Nguyễn Bát Sách định đem quân vào cướp. Vua biết được, viết hai chữ “Giải pháp” (nghĩa là giải tán quân lính) đưa cho các tướng và răn họ không được trái ý vua cha, các tướng mới thôi. Lát sau, thượng hoàng sai dìu vua xuống phủ Thái Dương thắt cổ chết. Trần Phế Đế ở ngôi được 12 năm, mất khi 28 tuổi. Thượng hoàng Nghệ Tông sau đó lập con út là Trần Ngung làm vua, lấy hiệu là Trần Thuận Tông.

B. Kế hoạch cứu vua của quân sĩ bị lộ

5. Vua nào nhà Trần bị Quý Ly ép phải dời bỏ kinh thành và nhường ngôi báu cho con?

A. Trần Phế Đế

B. Trần Thiếu Đế

C. Trần Thuận Tông

C là đáp án đúng. Trần Thuận Tông sinh năm 1378, là con út của thượng hoàng Trần Nghệ Tông. Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Vua chỉ ngồi giữ ngôi không, việc nước trong tay quyền thần, tai họa đến thân mà không biết”. Sau khi Trần Phế Đế mất, Trần Thuận Tông được thượng hoàng lập làm vua. Tiếng là làm vua trong 10 năm (1388-1398) nhưng thực ra Trần Thuân Tông không có quyền hành. Thời gian đầu, mọi việc quan trọng do thượng hoàng Nghệ Tông quyết định. Sau khi Nghệ Tông mất thì quyền điều hành chính sự do quyền thần Hồ Quý Ly hành xử.Năm 1397, Hồ Quý Ly cho dựng đàn xã tắc ở Thanh Hóa với ý định dời đô. Nhiều đại thần phản đối, nhưng Quý Ly không nghe. Còn Trần Thuận Tông không có quyết sách gì, để mặc Quý Ly định đoạt, và bị ép dời kinh đô đến phủ Thanh Hóa.Muốn thực hiện mưu đồ cướp ngôi nhà Trần, nhưng do trước đó đã thề với thượng hoàng Nghệ Tông “Nếu thần không biết dốc lòng trung, hết sức giúp quan gia để truyền đến con cháu về sau thì trời sẽ ghét bỏ thần” nên Quý Ly không thể phế truất Trần Thuận Tông.Năm 1398, Quý Ly ép Thuận Tông nhường ngôi cho con là Trần An (có tài liệu ghi Trần Án) mới 2 tuổi để lên làm thái thượng hoàng. Như vậy, Quý Ly vừa thực hiện được lời thề là “giúp truyền đến đời sau”, vừa thuận lợi trong việc nắm giữ quyền định đoạt mọi việc triều chính vì Trần An là cháu ngoại của Quý Ly.

6. Không chỉ bị ép dời bỏ kinh thành và nhường ngôi báu, Trần Thuận Tông còn bị Quý Ly ép làm gì?

A. Đi tu

B. Tự tử

C. Cả hai điều trên

C là đáp án đúng. Đại Việt sử ký toàn thư viết năm 1399, Quý Ly cưỡng bức vua xuất gia thờ Đạo giáo, ra ở quán Ngọc Thanh, thôn Đạm Thủy (thuộc Đông Triều, Quảng Ninh), bí mật sai Nguyễn Cẩn đi theo trông coi. Vua hỏi rằng “Ngươi theo hầu ta muốn gì chăng?”, Cẩn không nỡ trả lời. Quý Ly làm bài thơ đưa cho Thuận Tông với nội dung: “Trước có vua hèn ngu/ Hôn Đức và Linh Đức/ Sao không sớm liệu đi/ Để cho người nhọc sức”.Nhận được thư, Nguyễn Cẩn bèn dâng thuốc độc ép vua uống, lại bắt uống thêm nước dừa và không cho ăn để thuốc nhanh phát tác, nhưng vua không chết. Nghe tin báo bức tử không thành, Quý Ly sai Phạm Khả Vĩnh đến thắt cổ vua. Năm đó, Trần Thuận Tông mới 21 tuổi.

7. Trần Thiếu Đế, vua cuối cùng của nhà Trần, có phải chịu cảnh bức tử như hai vua trước đó?

A. Có

B. Không

B là đáp án đúng. Trần Thiếu Đế là con trưởng của vua Trần Thuận Tông và hoàng hậu Lê Thánh Ngâu, con gái lớn của Hồ Quý Ly. Ông lên ngôi năm 1398, khi mới 2 tuổi, trẻ nhất trong các vua nhà Trần và cũng tại vị ít nhất (2 năm). Thiếu Đế tuy gọi là vua nhưng chỉ là hư vị. Sau khi ông lên ngôi, Quý Ly tự xưng là Khâm Đức Hưng Liệt Đại vương. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, ngày 28/2/1400, Quý Ly ép Thiếu Đế phải nhường ngôi và buộc người tôn thất, các quan ba lần dâng biểu khuyên ông lên ngôi. Quý Ly giả vờ từ chối nói “Ta sắp xuống lỗ đến nơi rồi, còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới đất nữa” rồi tự lập mình làm vua, đặt quốc hiệu là Đại Ngu. Thiếu Đế bị phế nhưng vì là cháu ngoại của Hồ Quý Ly nên không bị giết, chỉ bị giáng làm Bảo Ninh đại vương. Về sau, sử sách không còn nhắc đến vị vua này nên không rõ năm mất của ông.

8. Người chú nào của vua Trần Thánh Tông từng dẫn quân Nguyên về xâm lược nước ta nhưng bị quân Trần đánh cho tan tác?

A. Trần Khánh Dư

B. Trần Nhật Hiệu

C. Trần Di Ái

C là đáp án đúng. Năm 1281, chú của vua Trần Thánh Tông là Trần Di Ái thay vua sang sứ nhà Nguyên. Lấy cớ vua Trần không sang, Hốt Tất Liệt đã phong cho Trần Di Ái làm An Nam quốc vương, sai Bột Nham Thiết Mộc Nhi đem 1.000 quân tháp tùng Trần Di Ái về làm vua nước Nam. Nhưng khi về đến biên giới thì quân hộ tống bị quân Trần đánh cho bán sống bán chết bỏ chạy. Trần Di Ái và bộ sậu bị bắt về. Vua Trần tha cho tội chết, nhưng bắt làm lính hầu ở phủ Thiên Trường, suốt đời nhục nhã không dám ngẩng mặt lên.

9. Hoàng tử nào của nhà Trần đã đầu hàng giặc, sau bị gọi với biệt danh mỉa mai là Ả Trần?

A. Trần Hữu Lượng

B. Trần Phổ Tài

C. Trần Ích Tắc

C là đáp án đúng. Trần Ích Tắc là con thứ của Thượng hoàng Trần Thái Tông. Thông minh, giỏi văn chương, nhưng tính cách nhỏ mọn, có ý tranh giành ngôi báu với vua Trần Thánh Tông, gửi mật thư thông đồng với giặc. Năm 1285, khi Thoát Hoan kéo quân xâm lược nước tai, Trần Ích Tắc được cử làm đại tướng cầm quân lên trấn giữ miền Đà Giang, nhân cơ hội đó, đưa cả vợ con chạy sang hàng giặc và cũng được vua Nguyên phong cho làm An Nam quốc vương. Nhưng quân Nguyên thua chạy, Trần Ích Tắc sống lưu vong nơi đất Bắc cho đến chết. Nhà Trần gạch tên Trần Ích Tắc ra khỏi dòng họ và gọi một cách khinh bỉ là Ả Trần, coi như một mụ đàn bà.

10. Ai không mang họ Trần nhưng lại làm vua nhà Trần?

A. Hồ Quý Ly

B. Dương Nhật Lễ

B là đáp án đúng.Dương Nhật Lễ còn có tên khác là Trần Nhật Kiên, ông ở ngôi từ tháng 7/1369-12/1370. Do chỉ đặt niên hiệu Đại Định nên ông thường được gọi là Đại Định Đế. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, ông là con của kép hát Dương Khương và Vương mẫu. Khi mẹ đang mang thai ông thì bị ép phải lấy Trần Nguyên Dục – anh vua Trần Dụ Tông. Về sau do Trần Dụ Tông không có con nên nhận Dương Nhật Lễ làm con nuôi và truyền ngôi cho. Ông trị vì được hơn 1 năm thì bị hoàng thân nhà Trần lật đổ.

C. Dương Khương

Số câu trả lời đúng

Châu Anh

Nguồn Tiền Phong: https://www.tienphong.vn/giao-duc/su-that-an-co-noi-tieng-o-den-tran-1379316.tpo