Rạng rỡ Việt Nam - Từ Tuyên ngôn độc lập đến khát vọng hùng cường bước vào kỷ nguyên mới - Bài 2

Bài 2: Pác Bó - Người về mở lối, lửa cách mạng soi đường tương lai

Mùa xuân năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước đã trở về trực tiếp lãnh, chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước, xây dựng căn cứ địa cách mạng, gây dựng lực lượng, tập hợp đoàn kết toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945. Từ “đầu nguồn” Pác Bó, ánh sáng của Đảng là ngọn lửa tương lai tỏa đi muôn phương, soi đường cho toàn dân đứng lên đấu tranh phá tan xiềng xích nô lệ, giành độc lập, tự do.

Xây dựng Cao Bằng thành địa thế chiến lược cách mạng

Ngày 28/1/1941, sau hành trình dài ba thập kỷ, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng một số đồng chí cán bộ cách mạng trở về Tổ quốc, đến cột mốc 108 thuộc xã Trường Hà (Cao Bằng). Trong ký ức của đồng bào vùng biên giới nơi đây, hình ảnh ông Ké cách mạng (lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc) giản dị mặc bộ quần áo Nùng, đôi mắt sáng, bước đi vững chãi trong giá lạnh vẫn còn in đậm như mới hôm qua.

Ông Nông Văn Nàn, 80 tuổi ở xóm Pác Bó, xã Trường Hà là con lão thành cách mạng Hoàng Thị Khìn - người đưa cơm cho ông Ké (Bác Hồ) trong hang Pác Bó xúc động nói: Mẹ tôi thường kể cho con cháu nghe khi vào hang Pác Bó đưa cơm cho ông Ké, ông luôn ân cần hỏi thăm về tình hình dân bản, có đủ cơm ăn, áo mặc không? Rồi ông Ké dặn các cháu phải cố gắng học chữ, biết đọc, biết viết, biết đường lối cách mạng để đoàn kết các dân tộc anh em đứng lên đánh đuổi quân Pháp, tay sai phong kiến, giành được độc lập, tự do thì mới hết khổ.

Dù ông Ké rất bận việc, sáng ra tảng đá bên suối nghiên cứu, viết tài liệu, dịch sách, bàn bạc công việc với các đồng chí cách mạng, nhưng Người cử cán bộ cách mạng dựng lán, dạy chữ cho bà con xóm Pác Bó. Sau mỗi buổi làm việc ông Ké lên thăm lớp học, động viên bà con. Con suối bên hang được Bác đặt tên là suối Lê-nin, ngọn núi phía trước gọi là núi Các Mác để khẳng định lý tưởng, con đường đấu tranh cách mạng vì nhân dân.

Việc Bác chọn Pác Bó, Cao Bằng làm nơi trở về nước xây dựng căn cứ địa cách mạng bởi nơi đây sớm có phong cách mạng phát triển mạnh, có nhiều cán bộ cách mạng tiêu biểu, có tổ chức Đảng rộng khắp các châu Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình, Quảng Uyên. Năm 1935, tờ báo Cờ Đỏ do Hoàng Đình Giong khởi xướng đã truyền bá tư tưởng cách mạng, nâng cao nhận thức của nhân dân. Với tầm nhìn chiến lược, Người nhận định: “Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Khi nối phong trào được với Thái Nguyên và toàn quốc thì phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể tiến công, lúc khó khăn có thể giữ”.

Chỉ sau vài tháng Người đã xây dựng Cao Bằng trở thành “căn cứ địa cách mạng” vững chắc, an toàn của cả nước. Các lớp huấn luyện cán bộ Việt Minh liên tiếp được mở, lực lượng vũ trang địa phương được củng cố, mạng lưới cơ sở cách mạng lan tỏa từ Cao Bằng sang Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang thông xuống Thái Nguyên…

Hội nghị Trung ương 8 tỏa sáng những quyết sách chiến lược cho vận mệnh dân tộc

Tháng 5/1941, tại lán Khuổi Nặm, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8. Đây là một trong những hội nghị có ý nghĩa chiến lược, đặt mục tiêu giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh (Việt Minh). Chủ trương đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt dân tộc, tôn giáo đứng lên đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc được thông qua. Hội nghị khẳng định: chiến tranh thế giới đang diễn biến đến hồi quyết liệt, phe phát xít dần thua cuộc, thời cơ giành độc lập sẽ đến, cần khẩn trương chuẩn bị lực lượng chính trị và vũ trang. Từ quyết sách này, Cao Bằng trở thành trung tâm căn cứ địa cách mạng ra những quyết sách quan trọng để tổ chức các lực lượng hoạt động cách mạng: in ấn tài liệu, huấn luyện cán bộ, vận chuyển vũ khí, thuốc men… Các khóa huấn luyện, đào tạo cán bộ cách mạng từ miền Bắc, Trung, Nam được mở. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Võ Nguyên Giáp… trực tiếp mở các lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho Cao Bằng… Pác Bó không chỉ là một phong trào cơ sở - nơi Bác dừng chân mà là trái tim của cả phong trào chuẩn bị các điều kiện, chờ thời cơ để tiến tới Tổng khởi nghĩa toàn quốc.

Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, ngày 28/1/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và cán bộ cách mạng trở về Pác Bó, xã Trường Hà (Cao Bằng).

Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, ngày 28/1/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và cán bộ cách mạng trở về Pác Bó, xã Trường Hà (Cao Bằng).

Báo chí cách mạng - Ngòi bút mở đường, con đường Nam tiến

Ngay sau khi về nước, tháng 8/1941, Bác Hồ sáng lập tờ Việt Nam Độc lập tại Pác Bó, nội dung ngắn gọn, dễ hiểu, nhiều hình vẽ và thơ ca. Đây không chỉ là tờ báo tuyên truyền đường lối cách mạng, mà còn là nhịp cầu kết nối niềm tin của đồng bào với cách mạng.

Ông Nông Thanh Quế, 75 tuổi, nguyên Chủ tịch Hội Nhà báo tỉnh Cao Bằng kể: Thời kỳ báo chí cách mạng còn bí mật, in xong, cán bộ cách mạng thường gói báo trong mo cau, giấu trong gùi củi để bọn mật thám, quan lại không phát hiện. Mỗi khi có báo mới đưa về xóm, bản, bà con truyền tay nhau đọc đến nhàu nát. Ai cũng tin ngày độc lập sẽ đến gần. Từ Cao Bằng, những gói báo, tài liệu huấn luyện, chỉ thị của Trung ương theo các tuyến liên lạc bí mật vượt qua rừng núi, xuống đồng bằng tỏa đi cả nước. Không khí tại các bản làng vùng căn cứ địa cách mạng sôi sục. Các nhóm cán bộ Việt Minh tỏa xuống các cơ sở, mở lớp bình dân học vụ, vận động nhân dân tham gia các tổ chức “Hội cứu quốc”, vận động thanh niên gia nhập lực lượng du kích. Từ đây, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã ra chủ trương triển khai con đường “Nam tiến” đưa phong trào Việt Minh từ Cao Bằng - Bắc Kạn - Tuyên Quang - Thái Nguyên thông xuống miền xuôi, mở rộng tổ chức Việt Minh ra toàn quốc tập hợp nhân dân, chớp thời cơ tiến tới tổng khởi nghĩa toàn quốc.

Hạt nhân vũ trang của Cách mạng tháng Tám khởi sinh từ Cao Bằng

Ngay từ khi trở về nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã xác định rõ: muốn làm cách mạng thành công, ngoài xây dựng lực lượng chính trị quần chúng, phải xây dựng lực lượng vũ trang làm nòng cốt, bảo vệ thành quả cách mạng, hỗ trợ phong trào đấu tranh của nhân dân và tiến tới cướp chính quyền bằng bạo lực cách mạng khi thời cơ chín muồi. Từ chiến lược ấy, Người và Trung ương Đảng chỉ đạo các xã vùng cao châu Hà Quảng, nơi phong trào cách mạng đang dâng lên mạnh mẽ thành lập những tổ, đội du kích nhỏ hoạt động bí mật ở Pác Bó, Lũng Nặm, sau đó lan ra châu Hòa An, Nguyên Bình… Các đội du kích vừa làm nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho cán bộ Việt Minh, vừa trực tiếp tuyên truyền, vận động quần chúng, góp phần xây dựng phong trào “ba cùng” giữa cán bộ và nhân dân, xây dựng niềm tin vững chắc của đồng bào với cách mạng.

Từ năm 1942 - 1943, nhiều tổ chức tự vệ chiến đấu, dân quân du kích ở các địa phương như: Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình… được tổ chức và huấn luyện cơ bản, cả về kỹ thuật quân sự, công tác chính trị, tinh thần chiến đấu. Những đội du kích này trở thành lực lượng bán vũ trang làm nòng cốt cho lực lượng giải phóng quân sau này. Đáng chú ý, tại các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nơi địa hình hiểm trở, các đội du kích được đồng bào chở che, nuôi dưỡng như con em trong nhà. Sự gắn bó máu thịt giữa chiến sĩ và nhân dân là một trong những yếu tố quyết định tạo nên sức mạnh đoàn kết toàn dân, tiền đề cho mọi thắng lợi cách mạng sau này.

Ngày 22/12/1944, tại khu rừng Trần Hưng Đạo thuộc xã Tam Kim, theo chỉ thị của Người, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân chính thức được thành lập, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Đội gồm 34 chiến sĩ, trong đó nhiều người xuất thân từ các đội du kích ở Cao Bằng, do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy, đồng chí Xích Thắng làm Chính trị viên.

Chỉ hai ngày sau khi thành lập, ngày 25, 26/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã lập hai chiến công vang dội đầu tiên tại Đồn Phai Khắt và Nà Ngần, gây tiếng vang lớn trong nhân dân, khích lệ phong trào kháng Nhật cứu nước ở Cao Bằng và toàn liên khu Việt Bắc. Những chiến thắng đầu tay ấy đã chứng minh tính đúng đắn của chiến lược xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Đồng thời, cũng là phép thử cho tinh thần thép, sự gan dạ, kỷ luật và lý tưởng cao đẹp của những người lính cách mạng đầu tiên.

Từ cột mốc lịch sử đó, lực lượng vũ trang cách mạng phát triển nhanh chóng cả về lực lượng lẫn quy mô hoạt động. Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân từng bước phát triển thành Giải phóng quân, sáp nhập với Cứu quốc quân, tiến tới thành lập Việt Nam Giải phóng quân - lực lượng vũ trang thống nhất, có tổ chức và chỉ huy tập trung. Các đơn vị lần lượt mở rộng phạm vi hoạt động từ Cao Bằng xuống Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, rồi tiến vào Tuyên Quang - nơi Trung ương Đảng chọn làm địa bàn chiến lược để chỉ đạo Tổng khởi nghĩa.

Cùng với sự phát triển của lực lượng chính trị và phong trào Việt Minh rộng khắp, lực lượng vũ trang nhân dân do Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân làm hạt nhân đã trở thành sức mạnh cách mạng chủ lực, là bàn tay thép chặt chẽ trong lòng khối đại đoàn kết toàn dân. Nhờ có sự kết hợp chặt chẽ giữa “công tác tổ chức quần chúng” và “chuẩn bị lực lượng vũ trang”, Đảng hội đủ các điều kiện cần thiết để phát động Tổng khởi nghĩa toàn quốc vào tháng Tám năm 1945, lật đổ ách thống trị của phát xít Nhật và thực dân Pháp, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Bài 3: Từ Pác Bó đến Tân Trào - Đất rung tiếng ca nở hoa tháng Tám

Trường Hà - Lý Thắng

Nguồn Cao Bằng: https://baocaobang.vn/rang-ro-viet-nam-tu-tuyen-ngon-doc-lap-den-khat-vong-hung-cuong-buoc-vao-ky-nguyen-moi-bai-2-3179496.html