Quy định rõ thời gian doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán
Ngày 23/10, Quốc hội thảo luận tại tổ dự án Luật Phá sản (sửa đổi). Qua thảo luận các đại biểu tán thành xây dựng dự án Luật để khắc phục các vướng mắc hiện hành, giúp rút ngắn thời gian xử lý các thủ tục pháp lý để phá sản, qua đó cải thiện môi trường kinh doanh.
Nêu ý kiến đại biểu Nguyễn Văn Quảng (Đà Nẵng) đề nghị cần đánh giá hiệu quả kinh tế và quản lý Nhà nước đối với việc bổ sung thủ tục phục hồi vào dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi). Bởi, dù thủ tục phục hồi rất có ý nghĩa nhưng những doanh nghiệp, hợp tác xã đến mức các chủ nợ yêu cầu tiến hành phá sản sẽ khó tiến hành trả nợ hay thực hiện phục hồi.

Đại biểu Nguyễn Văn Quảng (Đà Nẵng) phát biểu. Ảnh: Quang Vinh.
“Thời gian thực hiện phá sản hiện nay kéo dài từ 18 đến 24 tháng, có những vụ kéo dài đến 3, 4 năm. Nếu không áp dụng những trình tự, thủ tục đặc biệt thì hiệu quả giải quyết vụ phá sản sẽ khó đạt được” đại biểu Quảng nêu ý kiến.
Từ thực tế trên, đại biểu Nguyễn Văn Quảng cho rằng, cần tiếp tục rà soát những vướng mắc, khó khăn khiến thời gian tiến hành phá sản doanh nghiệp ở nước ta kéo dài; chú ý tách bạch kinh phí thực hiện phục hồi, phá sản, kinh phí bảo đảm hoạt động của doanh nghiệp trong thực hiện thủ tục phá sản, đặc biệt là kinh phí duy tu, bảo dưỡng để bảo đảm giữ giá trị tài sản…

Đại biểu Bế Minh Đức (Cao Bằng) phát biểu. Ảnh: Quang Vinh.
Về thời gian để xác định doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, đại biểu Bế Minh Đức (Cao Bằng) cho rằng, 6 tháng là thời gian đủ dài giúp doanh nghiệp có thêm thời gian để phục hồi hoặc bổ sung nguồn tài chính để tránh phá sản khi chỉ là khó khăn tạm thời.
Tại khoản 2, Điều 5 của dự thảo Luật cũng quy định doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán khi không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ sau thời hạn 6 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán.
Tuy nhiên, theo đại biểu, thời gian xác định mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp, hợp tác xã như quy định tại dự thảo Luật còn dài, làm chậm việc thực hiện các thủ tục phá sản, gây kéo dài nợ xấu, có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ nợ vì tài sản giảm giá, mất cơ hội thu hồi tài sản cao hơn.
Bên cạnh đó, quy định thời gian xác định mất khả năng thanh toán dài cũng tiềm ẩn nguy cơ bị lợi dụng để trục lợi, vì doanh nghiệp, hợp tác xã có thể lợi dụng để trì hoãn nghĩa vụ trả nợ, phá sản để né tránh trách nhiệm với chủ nợ.

Đại biểu Tạ Văn Hạ (Đà Nẵng) phát biểu. Ảnh: Quang Vinh.
Xung quanh việc bổ sung thêm quy định doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán, đại biểu Tạ Văn Hạ (Đà Nẵng) cho rằng việc đưa ra khái niệm “nguy cơ” mất khả năng thanh toán là dự đoán trong tương lai. Điều này khiến tòa án rất khó xác định và phán quyết như thế nào cho khách quan. Nếu quyết định không đúng sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp, nếu họ vẫn còn hoặc đang tìm kiếm những cơ hội trả nợ.
Dẫn chứng về quy định tại khoản 1 điều 5 có định nghĩa về doanh nghiệp, hợp tác xã có nguy cơ bị mất khả năng thanh toán, không thanh toán được khoản nợ sẽ đến hạn trong 6 tháng ông Hạ lý giải, nếu phán quyết trên dự đoán 6 tháng sau là rất khó.
Vấn đề phải quy định xem xét như thế nào để tránh gây khó cho cơ quan thực thi pháp luật trong khả năng đánh giá, phân tích khả năng phục hồi dẫn đến vụ việc kéo dài. Nhưng nếu không quy định chặt chẽ, rõ ràng, cụ thể sẽ tạo ra kẽ hở khi doanh nghiệp yếu kém có thể lợi dụng những quy định phục hồi để trì hoãn những khoản trả nợ, gây khó khăn cho chủ nợ.
“Quan trọng là cần có cơ chế giám sát sau phục hồi. Ranh giới giữa phục hồi và phá sản mong manh bởi vậy Luật cần quy định rõ để tránh gây khó cho cơ quan thực thi pháp luật trong quá trình thực hiện” đại biểu Hạ kiến nghị.











