Phát triển nhân tài công nghệ cao: Vượt qua rào cản để bứt tốc

Hiện thực hóa Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là một trong những nhiệm vụ chiến lược để Việt Nam trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045. Trong đó, trọng tâm là hình thành một hệ sinh thái nhân tài công nghệ cao đủ sức dẫn dắt nghiên cứu, vận hành phòng thí nghiệm, đồng thiết kế với doanh nghiệp và biến ý tưởng thành sản phẩm thương mại hóa. Nhưng trước khi bứt tốc, Việt Nam phải vượt qua hàng loạt rào cản đang kìm hãm quá trình hình thành vòng lặp tích cực giữa nhân tài và đổi mới sáng tạo.

Điểm sáng và rào cản

Nghị quyết 57-NQ/TW khẳng định khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đột phá chiến lược, coi phát triển nhân lực chất lượng cao là điều kiện tiên quyết để nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh quốc gia. Khát vọng 2045 không chỉ là mục tiêu tăng thu nhập bình quân đầu người, mà còn là xây dựng một nền kinh tế tri thức, nơi giá trị tăng trưởng đến từ tri thức và công nghệ do chính người Việt Nam tạo ra.

Những cột mốc cụ thể đã được đặt ra như việc vươn lên nhóm ba quốc gia dẫn đầu ASEAN về trí tuệ nhân tạo, nâng tỷ trọng kinh tế sinh học lên 7% GDP và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị bán dẫn toàn cầu… Các mục tiêu này chỉ có ý nghĩa nếu Việt Nam sở hữu một lực lượng tinh hoa khoa học – kỹ thuật đủ sức dẫn dắt các chương trình nghiên cứu và phát triển, biến các phát minh trong phòng thí nghiệm thành sản phẩm trên dây chuyền sản xuất và đưa ra thị trường.

Việt Nam đã có nền tảng ban đầu để bước vào quỹ đạo tăng tốc. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu tăng hạng nhanh, đứng thứ 44/133 nền kinh tế vào năm 2024 – dấu hiệu cho thấy nỗ lực xây dựng nền kinh tế dựa vào tri thức đang đi đúng hướng. Lực lượng lao động STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học) đang phát triển nhanh, với khoảng 560.000 chuyên gia trẻ (22-35 tuổi) có bằng đại học trong các ngành STEM vào năm 2023. Những tín hiệu này cho thấy “độ rộng” về cung lao động có kỹ năng đang hình thành, đồng thời phản chiếu nỗ lực tạo dựng vốn nhân lực trong những năm gần đây. Tuy vậy, bước nhảy từ “bề rộng” sang “chiều sâu” vẫn còn nhiều thách thức.

Một chuyên đề nghiên cứu của WB mới đây đã chỉ ra, mặc dù nguồn nhân tài đang từng bước phát triển, lực lượng lao động nghiên cứu nòng cốt của Việt Nam còn khiêm tốn so với quy mô dân số. Năm 2023, cả nước có khoảng 80.900 nhân lực R&D (quy đổi toàn thời gian) - chỉ chiếm khoảng 0,15% tổng số lực lượng lao động. Điều này đồng nghĩa với việc chỉ có chưa đến 800 cán bộ nghiên cứu trên một triệu dân, thấp hơn đáng kể so với các quốc gia hàng đầu trong khu vực và thấp hơn mục tiêu quốc gia đề ra là đạt ít nhất 12 nhân lực R&D toàn thời gian trên mỗi 10.000 dân vào năm 2030.

Khi đặt Việt Nam trong bản đồ cạnh tranh khu vực, bức tranh càng đòi hỏi một chiến lược chủ động. Chúng ta ở ngay cạnh những cực tăng trưởng khoa học - công nghệ năng động nhất thế giới, nơi các cụm đổi mới hội tụ nguồn lực khổng lồ về tài chính, con người và hạ tầng. Lợi thế địa kinh tế có thể kéo vốn và chuyên môn tới gần hơn, nhưng cái giá phải trả là cạnh tranh cũng vô cùng gay gắt. Trước sức hút của các trung tâm công nghệ khu vực, ưu tiên của Việt Nam không phải là “đón dòng chảy” thụ động, mà là thiết kế những thể chế và nền tảng đủ sức thu hút và giữ chân nhân tài.

Những khoảng trống về nhân tài không xuất hiện một cách tự phát mà là kết quả của một “vòng luẩn quẩn” kéo dài. Ở thượng nguồn, số lượng giảng viên có học vị tiến sĩ còn mỏng khiến năng lực đào tạo sau đại học hạn chế, kéo theo đầu ra tiến sĩ thấp, thiếu người dẫn dắt nhóm nghiên cứu. Khi giảng viên không tham gia nghiên cứu hoặc thiếu điều kiện học thuật - từ học bổng, thời gian nghiên cứu, tới cơ hội hợp tác quốc tế - khả năng hướng dẫn nghiên cứu sinh suy giảm, khiến vòng quay đào tạo nhân tài cao cấp chậm lại. Cùng lúc đó, đầu tư cho giáo dục đại học và R&D còn khiêm tốn, phân bổ chưa hiệu quả; khu vực tư nhân chưa hình thành “lực kéo” đủ mạnh cho nghiên cứu ứng dụng; liên kết trường - viện - doanh nghiệp lỏng lẻo… Tất cả khiến con đường từ phòng thí nghiệm tới nhà máy bị ngắt quãng, nhiều kết quả nghiên cứu dừng lại ở mức nguyên mẫu mà chưa thành sản phẩm.

Ngay cả phía doanh nghiệp - tác nhân quyết định trong thương mại hóa - hoạt động R&D nội bộ vẫn còn mỏng. Chi tiêu của doanh nghiệp (khu vực tư nhân) cho R&D chỉ quanh 0,2% GDP, thấp xa so với các nền kinh tế đi trước trong khu vực và thế giới; điều này nói lên việc nhiều công ty vẫn trông cậy vào công nghệ nhập khẩu hay điều chỉnh nhỏ thay vì phát triển công nghệ gốc. Khi “lực kéo” nghiên cứu từ phía thị trường còn yếu, cầu đối với nhân tài trình độ cao cũng giảm, vòng xoáy đổi mới khó thể tự khuếch đại.

Từ “đường băng” nhân tài đến hệ sinh thái đổi mới

Để bứt tốc, cần một chiến lược tổng thể đồng bộ, tạo vòng lặp tích cực giữa đào tạo, nghiên cứu, sản xuất và thương mại hóa. Trọng tâm trước hết là đầu tư có chọn lọc để hình thành đường băng cho các nhân tài, tinh hoa công nghệ. Một chương trình học bổng sau đại học cấp quốc gia cần được triển khai, tập trung vào các ngành mũi nhọn như bán dẫn, AI, công nghệ sinh học, năng lượng và vật liệu mới.

Cơ chế sàng lọc đầu vào phải nghiêm ngặt, đầu ra gắn với công bố quốc tế, bằng sáng chế hoặc sản phẩm nguyên mẫu, đồng thời yêu cầu giai đoạn thực tập trong doanh nghiệp để bảo đảm tính ứng dụng. Song song là đề án giảng viên ưu tú, trao quyền tự chủ học thuật và nghiên cứu, nâng tỷ lệ giảng viên có bằng tiến sĩ, tạo lõi học thuật để dẫn dắt đào tạo tiến sĩ và các dự án liên ngành.

Cùng với đó là phát triển hạ tầng nghiên cứu và phát triển mở và dùng chung. Một mạng lưới trung tâm ưu tú quốc gia, các phòng thí nghiệm dùng chung, nền tảng công nghệ truy cập mở và cơ sở đổi mới - thí điểm đặt cạnh khu công nghiệp sẽ rút ngắn thời gian từ ý tưởng tới dây chuyền, giảm chi phí thử nghiệm, chuẩn hóa quy trình và giúp doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, dễ dàng tiếp cận hạ tầng nghiên cứu.

Song hành là tăng cường liên kết giữa đại học, doanh nghiệp và chính quyền. Cần hình thành các cụm công nghệ đồng địa điểm, nơi nhà khoa học, kỹ sư và doanh nghiệp tương tác thường xuyên, tạo môi trường trao đổi nhân lực và tri thức. Cơ chế lưu chuyển nhân tài hai chiều phải linh hoạt để nhà khoa học có thể làm việc tại doanh nghiệp một phần thời gian, kỹ sư công nghiệp có thể tham gia giảng dạy hoặc hướng dẫn đồ án. Chính sách ưu đãi thuế và hỗ trợ tài chính cho các dự án nghiên cứu phát triển phối hợp sẽ kích thích doanh nghiệp đầu tư dài hạn và chia sẻ rủi ro nghiên cứu. Luật Sở hữu trí tuệ cần tạo điều kiện cho đồng sở hữu giữa nhà trường và doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi nhà khoa học, đồng thời khuyến khích thương mại hóa.

Chiến lược nhân tài cũng cần gắn chặt với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực công nghệ cao. Chiến lược thu hút FDI thời kỳ mới cần hướng tới các dự án có hàm lượng R&D tại chỗ và lộ trình phát triển kỹ năng cho lực lượng lao động trong nước, tạo hiệu ứng lan tỏa về công nghệ và nhân tài. Khi nhân tài trong nước đủ năng lực tiếp nhận và đồng thiết kế, mỗi dự án FDI sẽ trở thành một “trường học công nghiệp” thực thụ, để lại năng lực công nghệ bền vững chứ không chỉ là những dây chuyền gia công.

Cửa sổ cơ hội cho Việt Nam không kéo dài mãi. Khi chuỗi cung ứng toàn cầu đang tái định hình và các nền kinh tế khu vực cũng đang tăng tốc trong thu hút nhân tài, chậm chân đồng nghĩa với đánh mất vị thế. Đây là thời điểm vàng để dồn lực cho nhân tài công nghệ cao – từ học bổng, hạ tầng nghiên cứu, cải cách thể chế đến liên kết ba nhà. Khi Nhà nước, doanh nghiệp, trường đại học và cộng đồng nghiên cứu cùng hành động, một vòng lặp tích cực giữa nhân tài và đổi mới sáng tạo sẽ hình thành, tạo sức bật mới cho nền kinh tế, đưa Việt Nam vươn lên vị trí xứng đáng trong bản đồ công nghệ toàn cầu.

Đỗ Lê

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/phat-trien-nhan-tai-cong-nghe-cao-vuot-qua-rao-can-de-but-toc-170965.html