Nhớ một thời làm Báo Quân khu 1
Làm báo thời nào cũng có niềm vui và nỗi buồn, riêng với tôi, được cấp trên giao nhiệm vụ khôi phục lại tờ báo Quân khu 1 từ 1994 đến 2006, sau khi tờ báo bị giải thể là những năm tháng chất chứa biết bao kỷ niệm khó quên…
Bùi ngùi và nuối tiếc...
Vốn là một tờ báo được ra đời sau một năm đúng vào Ngày Cách mạng Tháng Tám (19-8-1946), lại có bề dày lịch sử truyền thống, được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Hai, nên khi được tin giải thể, không chỉ có anh chị em cán bộ, phóng viên, biên tập viên, công nhân viên của Báo bùi ngùi nuối tiếc, mà cả các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ quan đến đơn vị trong toàn Quân khu, cùng đông đảo bạn đọc gần xa cũng cảm thấy hẫng hụt.

Tác giả (ngoài cùng, bên trái) và những người làm Báo Quân khu 1. Ảnh: Báo Quân khu 1
Cục Chính trị Quân khu đã tính đến chuyện "thanh lý" Xưởng in Báo Quân khu. Hầu hết các cây bút của Báo có tên tuổi trong làng báo chí Việt Nam như các anh: Nguyễn Duy Quyền, Trần Đức Khang, Nguyễn Văn Tông, Đặng Vương Hưng, Nguyễn Quốc Trí, Ma Đình Việt, Hoàng Thiềng, Đinh Hồng Phước, Nguyễn Bình Phương… đã phải lặn lội đi tìm việc làm ở các cơ quan báo chí trong và ngoài Quân đội. Cơ sở vật chất của Tòa soạn lúc đó vỏn vẹn chỉ có vài chiếc máy ảnh, máy phóng ảnh (đen trắng) và chiếc máy đánh chữ được đưa vào kho vật tư của Cục Chính trị để cất giữ.
Nhà báo xe ôm - chuyện cười ra nước mắt
Nhận rõ vai trò, vị trí, chức năng của báo chí tuyên truyền là một “kênh lãnh đạo”, nên chỉ sau 3 năm giải thể (1991 - 1994), ngày 14-7-1994, Tư lệnh Quân khu 1 là Thiếu tướng Đàm Văn Ngụy đã ký quyết định khôi phục lại tờ báo với tên gọi ban đầu “Tờ tin Quân khu 1”. Đây được coi là một sự kiện, đánh dấu bước ngoặt quan trọng đối với sinh mệnh của một tờ báo khi đất nước chuyển mình từ thời bao cấp sang nền kinh tế thị trường.
Lúc đó, tôi đang là Chủ nhiệm Nhà văn hóa Quân khu 1, được Bộ tư lệnh giao nhiệm vụ sang phụ trách tờ báo với yêu cầu: Trong dịp 22-12 nhất thiết phải ra được số báo đầu tiên (bộ mới) để chào mừng kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Quyết định đó của cấp trên khiến tôi nửa mừng, nửa lo. Mừng vì tờ báo của chúng ta sau một thời gian vắng bóng, nay đã trở lại hoạt động, còn lo vì mặc dù đã có thời gian viết báo nhiều năm nhưng chưa từng làm công tác quản lý báo chí, nên tất cả mọi công việc đối với tôi đều phải bắt đầu từ con số 0.
Nhớ lại ngày đầu làm báo, đang trong lúc chưa có bài vở để biên tập thì đồng chí Phùng Khắc Đăng, Phó tư lệnh về chính trị Quân khu lúc đó, đã gọi tôi lên và ông trực tiếp hướng dẫn về phương pháp tạo nguồn để có nội dung cho báo. Với phương châm “đặt cọc” từ các cơ quan đến đơn vị và đội ngũ thông tin viên, cộng tác viên… nên chỉ trong thời gian ngắn, số lượng tin, bài khá dồi dào, phong phú, đa dạng. Số báo đầu tiên chào mừng Ngày thành lập Quân đội in 8 trang, 2/4 màu đã được "trình làng" theo đúng thời gian quy định, được đông đảo bạn đọc hoan nghênh, hưởng ứng.
Có những kỷ niệm cười ra nước mắt. Để đáp ứng yêu cầu bạn đọc, do Xưởng in Quân khu dùng máy ty-pô nên mỗi lần sau khi biên tập xong, lại phải đưa về Nhà in Báo Quân đội nhân dân ở Hà Nội để in ấn. Báo in xong - tôi (Tổng biên tập) và anh Nguyễn Xuân Đán (Thư ký Tòa soạn), cả hai đều buộc báo lên xe máy để chở về đơn vị trên chặng đường dài gần trăm cây số, có lần bị hỏng xe dọc đường giữa trời mưa giá rét, phải tới 12 giờ đêm mới đưa được báo về tới Quân khu. Thậm chí có lúc đi trên đường đến đầu phố Nỷ (Sóc Sơn) dừng xe vào quán uống nước thì gặp ngay cánh xe ôm quây lấy và cứ thế xua đuổi chúng tôi đến thậm tệ. Vì họ cho rằng, chúng tôi từ Thái Nguyên xuống có ý đồ tranh khách với họ…
Hạnh phúc người làm báo
Ròng rã suốt hơn 10 năm phải làm báo trong điều kiện hoàn cảnh khó khăn, gian khổ thiếu thốn đến như vậy, nhưng không có niềm vui hạnh phúc nào bằng khi về đến đơn vị được mọi người ùa ra chúc mừng và trân trọng đón nhận những tờ báo còn thơm mùi mực.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác tuyên truyền, số người làm báo được tăng lên, cơ sở vật chất được trang bị tương đối đầy đủ, hiện đại, chất lượng hoạt động của báo và truyền hình Quân khu ngày càng nâng cao, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ phóng viên, biên tập viên có bước trưởng thành, đại đa số đều được qua đào tạo cơ bản, nhất là khả năng tác nghiệp khi có tình huống đột xuất xảy ra.
Chẳng hạn như cơn lũ lịch sử tháng 7- 2001 tại tỉnh Thái Nguyên, 100% cán bộ, phóng viên của báo đều có mặt ở những nơi gian khổ, nguy hiểm để kịp thời đưa những thông tin nóng hổi và sống động nhất. Khán giả cả nước chưa thể quên những hình ảnh đầy xúc động về những chiếc xe bọc thép (BRDM-2) của Quân khu như những con mãnh hổ vượt qua vùng lũ xoáy chở các thí sinh đến các địa điểm thi đại học an toàn tuyệt đối.
Để có được những thước phim quý giá đó, anh em phóng viên Báo Quân khu phải thực hiện tác nghiệp bằng phương pháp “song song cách hai” nghĩa là, khi quay được hình ảnh, cử người nhanh chóng đưa ngay về Hà Nội (lúc đó chưa có điều kiện truyền dẫn tín hiệu), đồng thời ở nhà viết nội dung lời bình gửi fax về Đài Truyền hình Việt Nam. Nhờ vậy, chỉ sau 3 tiếng đồng hồ xảy ra sự kiện, Đài Truyền hình Việt Nam đã phát trên sóng VTV1 phóng sự “Lực lượng vũ trang Quân khu 1 cứu dân thoát khỏi vùng lũ”. Đây cũng là bài học kinh nghiệm quý báu về tác phong nhanh, nhạy, kịp thời, chính xác của người làm báo Quân khu.