Ngành công an và những trang sử chưa từng kể

Có những trang sử chưa từng được in thành sách, có những trận đánh, những chuyên án, những hy sinh không tên mà chỉ sống trong trí nhớ của người trong cuộc.

“Viết sử là đối diện với sự thật, kể cả khi sự thật khiến mình day dứt” - câu nói ấy của TS - Đại tá Phan Thanh Long, Nguyên Phó Cục trưởng Cục Khoa học, Chiến lược và Lịch sử Công an nhân dân, không chỉ là tâm sự nghề nghiệp. Đó là lời thề khắc vào tim của người dành cả cuộc đời để lắng nghe và kể lại những dấu mốc chói lọi, đôi khi cả những khúc quanh âm thầm trong hành trình 80 năm của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam.

. Phóng viên: Có sự kiện nào của ngành mà cho đến ngày nay vẫn còn để lại nhiều bài học quý hoặc những việc cần làm rõ hơn?

+ TS - Đại tá Phan Thanh Long: Tôi nghĩ một trong những sự kiện cần được nhìn nhận đúng mức hơn là chuyên án CM12 - một trận chiến thầm lặng nhưng vô cùng khốc liệt của lực lượng CAND sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Thời điểm đó, các thế lực phản động nước ngoài vẫn tiếp tục nuôi hy vọng “hậu chiến”, thực hiện âm mưu chống phá từ bên ngoài kết hợp với nội gián bên trong.

Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã lập chuyên án CM12, phá tan tổ chức do Mai Văn Hạnh và Lê Quốc Túy cầm đầu. Đây là những tên gián điệp biệt kích xâm nhập vào nội địa qua đường biển, chủ yếu tại huyện Trần Văn Thời (tỉnh Cà Mau) và một số khu vực ven biển tỉnh Kiên Giang. Từ tháng 9-1981 đến tháng 9-1984, ta đã đón lỏng 18 chuyến tàu xâm nhập, bắt hàng trăm tên địch, thu giữ lượng lớn vũ khí, điện đài và đặc biệt là 14 tấn tiền giả được in từ nước ngoài, nhằm mục đích phá hoại kinh tế đất nước.

Ta đã cảm hóa người của địch, dùng người của địch để đánh địch, điều khiển mọi hành động của chúng theo kịch bản do ta dựng sẵn. Điều tôi muốn nhấn mạnh là chuyên án này không chỉ phá vỡ âm mưu phản động, mà còn là đỉnh cao của nghệ thuật phản gián của Công an nhân dân Việt Nam và thời gian qua đã được phát huy mạnh mẽ qua nhiều vụ án lớn.

Năm 2022, Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an (nay là Tổng Bí thư), khi về thăm Hòn Đá Bạc, một trong những địa bàn trung tâm của chuyên án đã đánh giá đây là một trong những chiến công mẫu mực, thể hiện trí tuệ, bản lĩnh và đặc biệt là sự gắn bó máu thịt giữa công an, quân đội và nhân dân.

Không chỉ góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, chuyên án CM12 còn là “trường học lớn”, đào tạo nên một thế hệ cán bộ an ninh xuất sắc, nhiều người sau này trở thành tướng lĩnh, được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Đó là điều cần được nhắc nhớ đầy đủ hơn trong dòng chảy lịch sử ngành.

. Có những sự kiện nào chưa từng được công bố trên những trang viết không ạ?

. Có những sự kiện nào chưa từng được công bố trên những trang viết không ạ?

+ Vì lịch sử ngành còn gắn liền với hoạt động nghiệp vụ đặc thù, nên có những sự kiện chưa thể công bố sớm, không phải vì giấu giếm, mà vì chúng vẫn liên quan đến bảo mật. Vì vậy, có những vụ việc mà trước đây chưa ai nhắc đến, hoặc từng được hiểu chưa chính xác. Cho đến khi tiếp cận tư liệu, gặp nhân chứng và đối chiếu hồ sơ, chúng tôi mới làm sáng tỏ được bản chất sự việc.

Chẳng hạn, như vụ án gián điệp Bến Cát (Bình Dương ngày nay) xảy ra năm 1948 thời kỳ chống Pháp, từng được đánh giá là “vụ án lớn” với kết luận rằng cả làng làm gián điệp. Khi đó, vì một số lý do dẫn đến kết luận sai lệch. Năm 1951, tại Hội nghị Công an toàn quốc ở Tuyên Quang, khi lãnh đạo Sở Công an Nam Bộ báo cáo đây là chiến công lớn, các đồng chí cấp trên đã đặt dấu hỏi và đề nghị thanh tra.

Tuy nhiên, phải đến tận năm 1993, khi Viện Lịch sử Công an (hồi đó là Ban Tổng kết Lịch sử) biên soạn Lịch sử Công an Nam Bộ, vụ việc mới được rà soát kỹ lưỡng. Chúng tôi tiếp xúc với nhân chứng, thu thập đơn thư của người dân và kiến nghị lãnh đạo Bộ. Sau đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra quyết định minh oan cho những gia đình bị kết án sai.

Một trường hợp khác là vụ việc giải giới quốc vệ đội, Ty Công an Bà Rịa năm 1948. Do cách thức thực hiện nghiệp vụ không phù hợp, một số chiến sĩ đã bị bắt oan và chịu kết luận sai lầm. Sau này, trong quá trình viết Lịch sử Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, phối hợp cùng Công an tỉnh Đồng Nai và Viện Lịch sử Công an, chúng tôi làm rõ bản chất vụ việc và minh oan cho các cán bộ liên quan.

Tôi muốn nhấn mạnh, viết sử không phải để “tô hồng” hay “bôi đen”, mà để khôi phục sự thật một cách khách quan và nhân văn. Có những khúc quanh trong lịch sử ngành mà chỉ khi nhìn lại bằng cái tâm trong sáng và tinh thần trách nhiệm cao, ta mới thấy được sức nặng của sự thật và tầm quan trọng của sự công bằng lịch sử.

. Trong nhiều năm nghiên cứu lịch sử ngành, ông có nhận thấy một ‘hằng số’ nào xuyên suốt’ trong bản sắc của lực lượng Công an nhân dân – một điều không đổi qua mọi biến động lịch sử?

. Trong nhiều năm nghiên cứu lịch sử ngành, ông có nhận thấy một ‘hằng số’ nào xuyên suốt’ trong bản sắc của lực lượng Công an nhân dân – một điều không đổi qua mọi biến động lịch sử?

+ Thực tế, trải qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau, lực lượng Công an nhân dân Việt Nam ngày càng phát triển, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng giao phó, trở thành thanh bảo kiếm của Đảng, là lực lượng bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.

Trong dòng chảy lịch sử ấy, có một “hằng số” không bao giờ thay đổi, một giá trị bất biến, đó là phương châm: “Công an nhân dân - Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”.

Chính vì điều đó, suốt 80 năm qua, biết bao thế hệ cán bộ, chiến sĩ công an – từ thời chống Pháp, chống Mỹ, đến thời kỳ bảo vệ Tổ quốc trong hòa bình đã không quản ngại hy sinh, đương đầu với gián điệp Pháp, gián điệp Mỹ, các thế lực phản động và cả những cơ quan tình báo nước ngoài. Tất cả đều tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết.

Câu nói “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ” không chỉ là khẩu hiệu, mà đã trở thành phương châm hành động, là nguyên tắc sống và làm việc của lực lượng Công an nhân dân. Dù bất kỳ hoàn cảnh lịch sử nào, dù gánh nặng nhiệm vụ có thay đổi ra sao, thì lý tưởng phụng sự nhân dân, vì dân hy sinh vẫn luôn là kim chỉ nam trong từng bước trưởng thành của ngành.

. Trong quá trình làm việc của mình, theo Đại tá đâu là những giá trị cốt lõi – giá trị nền – mà ông muốn “thổi hồn” và truyền tải đến thế hệ mai sau?

. Trong quá trình làm việc của mình, theo Đại tá đâu là những giá trị cốt lõi – giá trị nền – mà ông muốn “thổi hồn” và truyền tải đến thế hệ mai sau?

+ 80 năm hình thành và phát triển, lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đã đồng hành cùng lịch sử dân tộc qua những giai đoạn rực lửa chiến tranh và những thập kỷ đổi mới. Có những giá trị cốt lõi không bao giờ thay đổi, đó là bản lĩnh, trí tuệ và sự trung thành tuyệt đối với Đảng, với nhân dân. Đó chính là linh hồn của ngành.

Tôi vẫn thường nói, “bản lĩnh và trí tuệ Công an nhân dân là trí tuệ vàng được hun đúc từ lòng dân, từ sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng”. Từ thời đánh Pháp, chống Mỹ, cho đến thời bình, chính bản lĩnh ấy đã giúp lực lượng Công an nhân dân đánh bại gián điệp, biệt kích, buộc đối phương đầu hàng vô điều kiện, bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia và sự bình yên của đất nước.

Các chuyên án lớn như CM12, Ôn Như Hầu hay hàng trăm vụ việc khác trong thời bình đều là minh chứng hùng hồn cho bản lĩnh, trí tuệ ấy. Đó không chỉ là những chiến công về mặt nghiệp vụ, mà là sự kết tinh của niềm tin, của lý tưởng cách mạng và tinh thần “vì nước quên thân, vì dân phục vụ”.

. Là người biên soạn và thẩm định nhiều tư liệu lịch sử nội ngành, ông từng tiếp xúc với những câu chuyện nào chưa từng được công bố rộng rãi nhưng phản ánh rõ nét bản lĩnh của người chiến sĩ Công an trong thời chiến hay thời bình?

. Là người biên soạn và thẩm định nhiều tư liệu lịch sử nội ngành, ông từng tiếp xúc với những câu chuyện nào chưa từng được công bố rộng rãi nhưng phản ánh rõ nét bản lĩnh của người chiến sĩ Công an trong thời chiến hay thời bình?

+ Trong suốt 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, lực lượng Công an nhân dân luôn gắn bó mật thiết với vận mệnh dân tộc. Và ở mỗi giai đoạn ấy, có không ít những chiến công thầm lặng, những câu chuyện chưa từng được công bố rộng rãi nhưng lại chứa đựng bản lĩnh phi thường của người chiến sĩ công an.

Một trong những sự kiện tiêu biểu là vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, lực lượng Công an nhân dân miền Bắc không chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ hậu phương mà còn phải chống lại cuộc chiến tranh gián điệp, chiến tranh tâm lý mà Mỹ tung ra với quy mô lớn. Mỹ không chỉ đánh phá miền Nam, mà còn âm mưu biến miền Bắc thành “thời kỳ đồ đá”, cắt đứt đường chi viện từ Bắc vào Nam.

Bộ Công an đã thành lập một chuyên án đặc biệt do đồng chí Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng Bộ Công an lúc đó, trực tiếp chỉ đạo. Nhiều cán bộ, trinh sát giỏi của nhiều địa phương được huy động để truy quét gián điệp, biệt kích từ miền Nam ra miền Bắc. Đó là thời điểm cực kỳ cam go.

Một trong những thành tựu nổi bật là chiến thuật “trò chơi nghiệp vụ”, tức là dùng chính người của địch, phương tiện của địch để đánh địch. Khi bắt được các gián điệp biệt kích, ta không tiêu diệt ngay, mà cảm hóa, giáo dục họ, rồi sử dụng chính máy liên lạc vô tuyến để đánh lạc hướng Trung tâm chỉ huy địch ở miền Nam. Nhờ thế, ta đã từng bước điều khiển, dẫn dụ các gián điệp tiếp theo rơi vào “vòng kiểm soát” và bắt sống trọn vẹn.

Có thể khẳng định, chuyên án gián điệp biệt kích là một chiến công đặc biệt xuất sắc, thể hiện trí tuệ, bản lĩnh và sự sáng tạo không ngừng nghỉ của lực lượng Công an nhân dân trong thời chiến.

. Ông cho rằng điều gì đã giúp lực lượng CAND không ngừng “tái tạo” mình qua các giai đoạn khốc liệt của chiến tranh, đổi mới và hội nhập?

. Ông cho rằng điều gì đã giúp lực lượng CAND không ngừng “tái tạo” mình qua các giai đoạn khốc liệt của chiến tranh, đổi mới và hội nhập?

+ Ngay từ thuở ban đầu, lực lượng công an đã “vừa học vừa làm”. Từ súng chưa quen tay, từ nghiệp vụ còn sơ khai, chúng tôi phải mày mò, đúc kết, tạo nên những đường lối nghiệp vụ đặc sắc của riêng ngành - không sao chép bất kỳ ai. Đó là nền móng cho bản lĩnh và văn hóa Công an nhân dân Việt Nam.

Ngày nay, khi bối cảnh thay đổi nhanh chóng, thách thức ngày càng phức tạp, thì lực lượng Công an nhân dân lại càng phải đổi mới tư duy, tổ chức cán bộ, phong cách làm việc và cả nghiệp vụ. Mỗi thời kỳ có đối tượng đấu tranh khác nhau và mỗi thế hệ công an phải làm chủ kỹ năng, làm chủ lý luận, làm chủ hiện đại hóa.

Chúng ta đã có một hệ thống đào tạo chính quy, bài bản, từ Học viện Công an nhân dân, Học viện Chính trị, đến Đại học An ninh, Đại học Cảnh sát… Đội ngũ giảng viên là tiến sĩ, phó giáo sư, nhà nghiên cứu tội phạm học. Công an hôm nay không chỉ dũng cảm ngoài trận địa mà còn sắc sảo trong phòng họp, trên bàn nghiên cứu.

Đó là lý do vì sao, dù đối diện với những nguy cơ mới, từ an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao, đến biến động địa chính trị toàn cầu, chúng ta vẫn vững vàng. Bởi đổi mới không chỉ là biện pháp mà là bản chất sống còn của lực lượng Công an nhân dân.

. Trong hàng chục công trình nghiên cứu của mình, đâu là công trình ông cho là có dấu ấn riêng – vừa mang tính học thuật, vừa đóng góp trực tiếp cho công tác xây dựng lực lượng hoặc giáo dục truyền thống ngành?

. Trong hàng chục công trình nghiên cứu của mình, đâu là công trình ông cho là có dấu ấn riêng – vừa mang tính học thuật, vừa đóng góp trực tiếp cho công tác xây dựng lực lượng hoặc giáo dục truyền thống ngành?

+ Câu hỏi này chạm đến phần sâu thẳm nhất trong hành trình nghề nghiệp của tôi, không chỉ là câu chuyện công việc mà còn là niềm đam mê, sự kiên trì và lòng kính trọng với lịch sử.

Trong quá trình nghiên cứu, tôi từng tham gia nhiều công trình về các giai đoạn lịch sử Công an nhân dân như: thời kỳ chống Pháp (1945–1954), thời kỳ chống Mỹ (1954–1975), thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay)... Bên cạnh đó là những công trình chuyên ngành: lịch sử tình báo, lịch sử lực lượng an ninh, hồ sơ nghiệp vụ, phòng cháy chữa cháy, lịch sử các nhà trường, truyền thống công nhân viên… Nhưng nếu phải chọn ra hai công trình để lại trong tôi dấu ấn sâu đậm nhất, thì đó là công trình “Công an Nam Bộ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp” và công trình “An ninh miền Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước”.

Công trình thứ nhất là công trình “Công an Nam Bộ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp” (1945–1954). Chúng tôi tổ chức gặp mặt Công an Nam Bộ, phỏng vấn nhân chứng lịch sử, xác minh sự kiện và hồi sinh lại từng mảnh ký ức một cách trung thực, thận trọng. Cuốn sách được Nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành năm 1993, và đến nay vẫn là một công trình có giá trị, không chỉ giúp tôi hiểu sâu sắc hơn về vùng đất Nam Bộ, mà còn là lời tri ân với thế hệ Công an kháng chiến đã đặt nền móng cho lực lượng hôm nay.

Công trình thứ hai là công trình “An ninh miền Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước” (1954–1975). Đây là một công trình được chủ biên bởi Thiếu tướng Ngô Quang Nghĩa, Anh hùng LLVTND - Nguyên Chánh Văn phòng An ninh Trung ương Cục miền Nam. Tôi có vinh dự tham gia biên soạn.

Cuốn sách tái hiện một cách chân thực quá trình hình thành, chiến đấu và trưởng thành của lực lượng An ninh miền Nam, từ khi được tái lập sau phong trào Đồng Khởi đến khi góp phần vào Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đã có hơn 13 vạn cán bộ công an miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam, để xây dựng bộ khung từ khu, tỉnh đến cơ sở. Lực lượng an ninh toàn miền đến lực lượng an ninh tỉnh và cơ sở đóng vai trò sống còn trong các phong trào phòng gian, bảo mật, diệt ác phá tề, chống gián điệp, bảo vệ hành lang, kho tàng, và tham gia trực tiếp vào những trận đánh táo bạo nhất, thầm lặng nhất.

Đặc biệt, nhiều điệp báo an ninh đã “chui sâu, leo cao” vào bộ máy của địch, tạo điều kiện để đối phương buộc phải đầu hàng, bảo toàn tính mạng cho nhân dân, giữ cho TP không đổ nát trong những giờ phút cuối cùng.

. Khi viết về lịch sử ngành, ông có từng đối mặt với giằng co giữa sự thật tư liệu và sức ép từ cảm xúc cá nhân, nhất là khi viết về những người ông từng quen biết, đồng đội hoặc cấp trên?

. Khi viết về lịch sử ngành, ông có từng đối mặt với giằng co giữa sự thật tư liệu và sức ép từ cảm xúc cá nhân, nhất là khi viết về những người ông từng quen biết, đồng đội hoặc cấp trên?

+ Người viết sử, trước hết là người giữ gìn sự thật, nhưng đồng thời cũng là người mang trong mình những cảm xúc, những ký ức sâu sắc. Có những lúc, khi cầm bút viết về đồng chí, đồng đội, cấp trên, những người mình từng quen biết, từng sát cánh, tôi không tránh khỏi những giằng xé giữa lý trí và tình cảm. Đó là cuộc đấu tranh nội tâm đầy day dứt.

Tuy nhiên, điều cốt lõi nhất của người làm sử là phải trung thực, tôn trọng sự thật lịch sử, tôn trọng nhân chứng và tư liệu. Chúng ta không thể vì cảm xúc mà né tránh hay làm mờ đi bản chất của sự kiện. Lịch sử phải là ánh sáng, không thể bị che phủ bởi bóng tối của thiên kiến, dù vô tình hay hữu ý.

Tôi còn nhớ rất rõ khi tham gia viết lại vụ án nghệ sĩ Thanh Nga bị sát hại. Đây là một vụ án gây rúng động dư luận vào năm 1978. Lúc ấy, có nhiều luồng thông tin cho rằng đây là vụ án chính trị, rằng nữ nghệ sĩ bị ám sát có chủ đích. Nhưng khi đặt mình trong vị trí người làm sử, tôi và các đồng chí đã phải đi đến tận cùng sự thật, dù cho nó có khác với cảm nhận ban đầu.

Bộ Công an khi đó đã thành lập Ban chuyên án đặc biệt, do đồng chí Trần Quyết - Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an làm Trưởng ban. Đồng chí Mai Chí Thọ, lúc đó là Phó Bí thư Thành ủy, Giám đốc Công an TP.HCM, trực tiếp làm Phó ban. Hơn 200 cán bộ, chiến sĩ tinh nhuệ được huy động để phá án.

Sau nhiều tháng trời điều tra mà không có manh mối, chúng tôi quyết định mở rộng hướng điều tra sang các vụ án bắt cóc, tống tiền từng xảy ra trước đó. Chính hướng đi này đã mở nút thắt cho toàn bộ vụ án. Cuối cùng, hung thủ khai nhận: mục tiêu của chúng là bắt cóc cháu Cúc Cu - con trai nghệ sĩ Thanh Nga để đòi tiền chuộc, nhưng trong quá trình giằng co, súng cướp cò, dẫn đến cái chết thương tâm.

Đây là vụ án hình sự đơn thuần, nhưng lại bị bao phủ bởi những cảm xúc chính trị hóa suốt một thời gian dài. Nếu không thẳng thắn nhìn nhận sự thật, chúng ta sẽ vô tình biến sử thành huyễn tưởng.

Tôi đã trực tiếp phỏng vấn đồng chí Mai Chí Thọ - người chỉ đạo phá án để lấy lại đầy đủ ngữ cảnh, những chi tiết quý giá cho tư liệu lịch sử. Và từ đó, một lần nữa khẳng định giá trị của sự thật, dù đôi khi phải đi ngược lại cảm xúc cá nhân.

. Xin cảm ơn ông!

3 cột mốc tiêu biểu nhất trong tiến trình 80 năm của lực lượng CAND

Thứ nhất, ngày thành lập lực lượng CAND (19-8-1945), ngay sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám. Đây là cột mốc khai sinh ra lực lượng Công an nhân dân Việt Nam - một quyết định chiến lược và kịp thời của Đảng và Bác Hồ.

Thứ hai, Sắc lệnh số 23 ngày 21-2-1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thống nhất các tổ chức Công an thành “Việt Nam Công an vụ”. Đây là dấu mốc đặt nền móng cho tổ chức chính quy, thống nhất toàn quốc đầu tiên của ngành. Ngay từ khi mới thành lập, tình hình đất nước như "ngàn cân treo sợi tóc", ngày 12-7-1946, lực lượng Công an đã lập nên chiến công vang dội khi phá vụ án Ôn Như Hầu, đập tan âm mưu của Quốc dân Đảng cấu kết với gián điệp Pháp và các thế lực phản động trong nước nhằm đảo chính, lật đổ Chính phủ cách mạng do chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Ngày 12-7-1946 trở thành ngày truyền thống của lực lượng An ninh nhân dân.

Đó là chiến công minh chứng cho sự trưởng thành, bản lĩnh và sự chỉ đạo đúng đắn, linh hoạt của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh với phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) và kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975), lập nhiều chiến công đặc biệt xuất sắc, đánh thắng gián điệp Pháp, gián điệp Mỹ, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Quốc hội, từ năm 1975 – 1985, lực lượng CAND thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần phát triển kinh tế - xã hội sau chiến tranh, làm thất bại âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ và xây dựng đất nước.

Thứ ba, thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay, CAND đã đồng hành cùng đất nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững trật tự an toàn xã hội. Đây là giai đoạn đòi hỏi lực lượng công an phải không ngừng đổi mới tư duy nghiệp vụ, tổ chức bộ máy, phát triển khoa học - công nghệ, và đặc biệt là nâng cao bản lĩnh chính trị - tư tưởng để giữ vững thế trận an ninh trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập và nhiều mối đe dọa an ninh phi truyền thống.

TS - Đại tá Phan Thanh Long

Nội dung: ĐÀO HÀ - VÕ TÙNG

Ảnh: NGUYỆT NHI - TẤN LỰC

Thiết kế: NGUYỆT NHI

Nguồn PLO: https://plo.vn/nganh-cong-an-va-nhung-trang-su-chua-tung-ke-post865664.html