Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách liêm chính khoa học

Cần thiết lập chính sách, quy trình điều tra và xử lý đối với hành vi vi phạm về liêm chính khoa học.

Hoàn thiện chính sách liêm chính khoa học không chỉ là nhiệm vụ quan trọng của nước ta nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của thị trường khoa học và công nghệ trong nước, mà còn là mục tiêu dài hạn của Việt Nam trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn toàn cầu về hợp tác quốc tế và nâng cao uy tín, vị thế của khoa học quốc gia.

 Ảnh minh họa: Phạm Thi

Ảnh minh họa: Phạm Thi

Các khía cạnh của liêm chính khoa học

Liêm chính khoa học (Scientific integrity) là việc tuân thủ các thông lệ chuyên môn, hành vi đạo đức và các nguyên tắc trung thực, khách quan khi tiến hành, quản lý, sử dụng kết quả và truyền đạt về khoa học và các hoạt động khoa học. Hay nói cách khác, liêm chính khoa học là “điều kiện xảy ra” khi cá nhân tuân thủ các tiêu chuẩn, giá trị chuyên môn và thông lệ được chấp nhận của cộng đồng khoa học liên quan.

Thừa nhận trong khoa học “sai lầm là không thể tránh khỏi”

Đạo đức nghiên cứu được coi là một yếu tố quan trọng trong học thuật, liên quan đến hành vi của các nhà nghiên cứu trong việc thúc đẩy liêm chính khoa học. Theo Armond và cộng sự (2024), liêm chính khoa học phát triển mạnh mẽ khi các viện nghiên cứu xây dựng văn hóa nhận thức thay vì dùng đến các “chiến thuật săn phù thủy” (Witch-hunting tactics). Điều này đòi hỏi một không gian an toàn và tôn trọng, nơi các cá nhân có thể tự do tham gia thảo luận về các vấn đề liên quan đến sự chính trực và cùng nhau học hỏi từ chính những sai lầm.

Điều cần thiết là phải thừa nhận rằng: “Sai lầm là không thể tránh khỏi”, nhưng khía cạnh quan trọng nằm ở sự sẵn lòng học hỏi, tuân thủ nguyên tắc “sai lầm được chấp nhận, tôn trọng, kiểm tra và sửa chữa”. Các cuộc thảo luận thường xuyên và cởi mở về tính chính trực trong nghiên cứu sẽ đặt ra “la bàn đạo đức” (Moral compasses), và trong một cộng đồng khoa học lý tưởng, các phẩm chất đạo đức và tính chính trực khoa học phải thấm nhuần trong bản chất của các nhà nghiên cứu, như là một phần DNA của họ.

Nguyên tắc và các yếu tố ảnh hưởng

Nghiên cứu của Armond và cộng sự (2024) chỉ ra rằng các nguyên tắc cốt lõi của liêm chính nghiên cứu bao gồm tính nghiêm ngặt, trung thực, minh bạch, tôn trọng và trách nhiệm giải trình. Việc tuân thủ các nguyên tắc đạo đức và thể hiện tính trung thực chuyên môn trong các khía cạnh của hoạt động nghiên cứu góp phần xây dựng liêm chính khoa học.

Một nghiên cứu gần đây của Nguyễn Thị Lan và và Kulthida Tuamsuk (2024) đến từ Đại học Khon Kaen, Thái Lan xác nhận năm yếu tố ảnh hưởng đến liêm chính khoa học trong xuất bản học thuật: (1) yêu cầu/chính sách của trường đại học/khoa, (2) sự hỗ trợ của trường đại học, (3) các khía cạnh của xuất bản, (4) các khía cạnh của nhà xuất bản và (5) các yếu tố liên quan đến nhà nghiên cứu. Theo người viết, các yếu tố này có thể phân thành 3 nhóm sau:

Thứ nhất, các chính sách của trường đại học gồm yêu cầu/tiêu chuẩn, quy trình đạo đức, tiêu chuẩn quốc gia, áp lực từ giảng viên, kế hoạch tài trợ, hỗ trợ của trường đại học cho xuất bản, đào tạo và giáo dục.

Thứ hai, các khía cạnh xuất bản và nhà xuất bản gồm phí xử lý bài (Article Processing Charge - APC), tốc độ chấp nhận, quy trình đánh giá, tên nhà xuất bản và chính sách truy cập mở.

Thứ ba, các khía cạnh của nhà nghiên cứu gồm thăng tiến trong học thuật, thu nhập, danh tiếng cá nhân, hợp tác và xung đột lợi ích.

Liêm chính khoa học dưới góc nhìn pháp lý

Đa phần những vụ việc về liêm chính khoa học thường xoay quanh các hành vi gian lận khoa học, điển hình là đạo văn, làm giả mạo hoặc xuyên tạc dữ liệu. Tính đến nay, trên thế giới chưa có một phán quyết chính thức nào của tòa án về liêm chính khoa học. Hầu hết các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh thường tập trung vào các trường hợp cụ thể về hành vi sai trái hoặc vi phạm chính sách khoa học.

Tuy vậy, không thể phủ nhận tác động lan tỏa của các vi phạm về liêm chính khoa học. Ví dụ trong lĩnh vực y học, bất kỳ vi phạm nào về tính chính trực trong kết quả nghiên cứu đều có khả năng dẫn đến “hiệu ứng domino” ảnh hưởng đến tiến trình điều trị của bệnh nhân, can thiệp y tế và việc thực hiện rộng rãi hơn các chính sách chăm sóc sức khỏe. Nhiều trường hợp các kết luận nghiên cứu đưa thông tin sai về công dụng của thực phẩm chức năng hay thậm chí là các sản phẩm, dược phẩm y tế. Đơn cử như hành vi ngụy tạo dữ liệu (Fabrication) trong bài báo về tác dụng điều trị của thuốc. Việc cố ý tạo ra dữ liệu và kết quả nghiên cứu không có thật, sau đó báo cáo như thể chúng đã được thu thập hoặc thực hiện một cách hợp lệ là một vi phạm nghiêm trọng về liêm chính khoa học.

Tiêu biểu là trường hợp ngụy tạo dữ liệu nghiên cứu của bác sĩ John Darsee. Tháng 10/1981, những bất cập trong dữ liệu từ một nghiên cứu hợp tác đã thúc đẩy Viện Y tế Quốc gia Mỹ (NIH) mở cuộc điều tra sâu rộng. Theo kết luận của NIH, bác sĩ John Darsee đã làm giả một lượng lớn dữ liệu từ các thí nghiệm mà ông chưa từng thực hiện (liên quan đến nghiên cứu về thuốc điều trị tim mạch). Sau đó, những cuộc điều tra khác đã diễn ra tại Harvard (1981-1982); Viện Tim, Máu và Phổi Quốc gia (1981-1982); và Viện Y tế Quốc gia (1983) cho thấy, John Darsee bị phát hiện đã bịa đặt các bài báo nghiên cứu, bắt đầu từ khi ông còn là sinh viên ngành sinh học tại Đại học Notre Dame, tiếp tục trong suốt thời gian nội trú y khoa và học bổng tim mạch tại Đại học Emory, và kết thúc tại Harvard. Thống kê ghi nhận hơn 10 bài báo chính và hơn 45 bản tóm tắt đã bị rút lại sau các cuộc điều tra.

Vụ bê bối khiến John Darsee bị cấm nhận tài trợ liên bang trong vòng 10 năm. Đồng thời, bệnh viện Brigham and Women's, nơi bác sĩ John Darsee công tác được yêu cầu hoàn trả lại 122.000 Đô la Mỹ cho Quỹ tài trợ nghiên cứu của NIH. Theo NIH, đây cũng là lần đầu tiên một tổ chức phải hoàn trả tiền do gian lận nghiên cứu. Bên cạnh đó, NIH cũng chỉ trích các hoạt động kiểm tra, giám sát và thẩm định tại phòng thí nghiệm Harvard, nơi tiến sĩ John Darsee làm việc là không đủ nghiêm ngặt. Vụ bê bối đã châm ngòi cho các cuộc điều tra về các công trình trước đây của tiến sĩ John Darsee tại Đại học Emory và phát hiện thêm nhiều vụ làm giả dữ liệu khác. Điều này dẫn đến mối lo ngại lan rộng về tính cạnh tranh của môi trường nghiên cứu và độ tin cậy của các thí nghiệm khoa học.

Một trường hợp khác xảy ra không lâu sau đó là vụ việc của bác sĩ Robert A. Slutsky, người làm việc trong lĩnh vực X quang tại Đại học California, San Diego (Mỹ) cũng được làm sáng tỏ liên quan đến vấn đề vi phạm liêm chính khoa học trong ngụy tạo dữ liệu và xác định đồng tác giả (gian lận tác giả). Theo điều tra, trung bình cứ sau 10 ngày, Slutsky sẽ xuất bản được một bài báo và kéo dài trong nhiều năm.

Ngoài ra, Slutsky còn sử dụng hình thức “tác giả tặng kèm” (Gift authorship) hoặc “tác giả danh dự” (Honorary authorship) qua việc đưa tên của những nhà nghiên cứu có ảnh hưởng, nổi tiếng làm đồng tác giả vào các bài báo của mình (những người có thể không có hoặc có rất ít đóng góp vào công trình đó, và đôi khi không hề hay biết về việc tên của họ được đưa vào) nhằm đánh lừa biên tập viên và che giấu những gì sau đó được phát hiện là kết quả sai lệch. Hành vi của ông tiếp tục cho đến năm 1985, khi một người bình duyệt (của tạp chí khoa học) nhận thấy dữ liệu bị trùng lặp trong hai bài báo khác nhau của Slutsky. Các kết luận điều tra từ Đại học California cho thấy Slutsky đã bị phát hiện tự ý bịa đặt và thay đổi dữ liệu trong nhiều nghiên cứu, đặc biệt là các nghiên cứu liên quan đến kỹ thuật hình ảnh tim mạch như chụp cắt lớp vi tính (Computerized Tomography - CT) tim và chụp mạch máu. Cụ thể trong số 137 ấn phẩm của ông, chỉ có 77 ấn phẩm hợp lệ, 48 ấn phẩm đáng ngờ và 12 ấn phẩm gian lận. Sau khi bị chất vấn, Slutsky đã từ chức các vị trí của mình (Bác sĩ nội trú X quang và Phó Giáo sư lâm sàng) tại Đại học California.

Chính sách một số quốc gia trong xử lý vi phạm liêm chính khoa học

Về mặt hệ quả, các vi phạm liêm chính khoa học có thể gây hậu quả nghiêm trọng. Chính vì vậy, một số cơ quan quốc gia có nền khoa học phát triển như ở Mỹ hay Liên minh Châu Âu (EU) đã ban hành nhiều chính sách liên quan đến liêm chính khoa học. Tại Mỹ, Bộ Y tế và Dịch vụ nhân sinh (Department of Health and Human Services - HHS) thiết lập chính sách giải quyết các vấn đề về liêm chính khoa học trong bộ phận vận hành, đảm bảo rằng những sản phẩm, công trình, dự án nghiên cứu do chính phủ tài trợ tuân thủ các tiêu chuẩn về tính trung thực và độ tin cậy.

Ngoài ra, HHS còn ban hành chính sách đối với cơ chế tố giác sai phạm khoa học được quản lý bởi Văn phòng Liêm chính nghiên cứu (Office of Research Integrity - ORI), đơn vị trực thuộc HHS. Cụ thể, do người tố cáo hành vi sai trái trong nghiên cứu có thể bị trả thù, nên Quy tắc của Cơ quan Y tế Công cộng (Public Health Service - PHS) yêu cầu các tổ chức phải thực hiện hai việc: (1) Bảo mật thông tin của người bị khiếu nại, người khiếu nại và các đối tượng nghiên cứu liên quan, (2) Thực hiện mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ công việc và danh tiếng của những người tố cáo, nhân chứng, và thành viên ủy ban hành động thiện chí.

Có thể thấy, chính sách của HHS, ORI và quy tắc của PHS tập trung vào việc bảo vệ những người tố giác (Whistleblowers) các hành vi sai phạm nghiên cứu trong các dự án mà PHS tài trợ. Mục đích là để họ không bị trả đũa bởi người bị khiếu nại hoặc bất kỳ ai khác trong tổ chức.

Hay một tổ chức tài trợ lớn khác tại EU là Quỹ Khoa học Quốc gia Thụy Sĩ (SNSF) đã đưa ra nhiều chính sách xử lý vi phạm về liêm chính khoa học. Trong đó, SNSF xây dựng một danh mục các trường hợp hành vi sai trái trong khoa học để duy trì niềm tin và trách nhiệm giải trình trong nghiên cứu gồm: nghiêm cấm việc lấy kết quả và hiểu biết thu được của người khác làm của riêng (đạo văn); cung cấp thông tin sai lệch hoặc thao túng, bịa đặt dữ liệu (giả mạo hoặc xuyên tạc dữ liệu); có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc làm ảnh hưởng đến hoạt động khoa học của người khác; khuyến khích, chấp nhận, che giấu hành vi sai trái khoa học của người khác (đồng lõa), hoặc không thực hiện nhiệm vụ giám sát (dung túng).

Về quy trình xử lý, SNSF thiết lập 4 bước cụ thể trong quy trình điều tra và xử lý, bao gồm:

Bước 1: Tiếp nhận và tiến hành điều tra sơ bộ

SNSF tiếp nhận các cáo buộc về hành vi sai trái khoa học thông qua email (integrity@snf.ch). Sau khi nhận được cáo buộc, nhóm điều tra của SNSF sẽ tiến hành kiểm tra sơ bộ. Nếu các cáo buộc có thể xác minh được, vụ việc sẽ được chuyển lên Ủy ban Liêm chính nghiên cứu (Commission on Research Integrity - CRI).

Bước 2: Hợp tác kiểm tra

SNSF ưu tiên để nơi các nhà nghiên cứu làm việc tự giải quyết các vấn đề vi phạm đạo đức nghiên cứu, vì những tổ chức này có trách nhiệm chính trong việc giám sát và xử lý. SNSF sẽ chờ xem kết quả điều tra và xử phạt từ tổ chức đó. Nếu kết quả không đủ rõ ràng hoặc chưa giải quyết hết các vấn đề liên quan đến SNSF, thì CRI sẽ can thiệp và tiến hành điều tra riêng biệt.

Bước 3: Điều tra chính thức

CRI điều tra xem xét liệu các chính sách và hướng dẫn đạo đức, chẳng hạn như các chính sách về tính trung thực và minh bạch dữ liệu có bị vi phạm và có dẫn đến hậu quả cho các nhà nghiên cứu hoặc tổ chức liên quan hay không. Bên cạnh đó, đánh giá chi tiết vụ việc, đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội (Presumption of innocence) và cho phép các bên liên quan trình bày quan điểm của mình. Dù vụ việc đã được xác nhận, danh tính của những người có liên quan vẫn được giữ bí mật trong suốt quá trình điều tra.

Bước 4: Các biện pháp xử phạt

Nếu hành vi sai trái khoa học được xác nhận, cơ quan ra quyết định, thường là Hội đồng học thuật (Academic Board) của Hội đồng nghiên cứu (Research Council) áp dụng các biện pháp và chế tài khác nhau như: nhắc nhở; yêu cầu hoàn trả toàn bộ hoặc một phần kinh phí tài trợ đã cấp (thu hồi kinh phí); áp dụng lệnh cấm đối với nhà khoa học hoặc tổ chức nghiên cứu liên quan trong một khoảng thời gian nhất định hoặc vĩnh viễn. Đồng thời, yêu cầu rút bài báo, đính chính hoặc chỉnh sửa các báo cáo khoa học.

Nhìn chung, các chính sách giúp đảm bảo rằng các nhà nghiên cứu được PHS hay SNSF tài trợ tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc liêm chính khoa học.

Một số kiến nghị

Một trong những điểm nổi bật của Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được Quốc hội thông qua vào ngày 27/6/2025 là chú trọng nâng cao tính minh bạch, đạo đức và liêm chính trong hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Dưới đây là một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách liêm chính khoa học tại Việt Nam trong thời gian tới.

Một là, thiết lập chính sách, quy trình điều tra và xử lý đối với hành vi vi phạm về liêm chính khoa học. Trong đó, hoàn thiện 5 nguyên tắc cốt lõi của liêm chính nghiên cứu gồm tính nghiêm ngặt, trung thực, minh bạch, tôn trọng và trách nhiệm giải trình và xây dựng chính sách chi tiết theo từng đối tượng gồm: trường đại học, nhà nghiên cứu, nhà xuất bản và ấn phẩm khoa học. Chúng ta nên tham khảo các quy định của HHS hay SNSF trong triển khai quy định xử lý sai phạm trong liêm chính khoa học. Qua đó, củng cố tính minh bạch và công bằng trong học thuật, hướng đến kiểm soát gian lận khoa học nói riêng và liêm chính khoa học nói chung, thúc đẩy môi trường nghiên cứu lành mạnh.

Hai là, tăng cường cơ chế tố giác hành vi vi phạm khoa học. Về lâu dài, để đảm bảo tính trung thực và trách nhiệm giải trình trong nghiên cứu, các tổ chức cần xây dựng hệ thống tố giác hành vi vi phạm khoa học minh bạch và hiệu quả, nơi cộng đồng học thuật nêu lên tiếng nói về sự bất đồng quan điểm (dissent). Bên cạnh đó, các chính sách chống lại hành vi vi phạm liêm chính khoa học phải bao gồm các biện pháp mạnh mẽ (như quy tắc của PHS) nhằm bảo vệ các nhà khoa học tham gia tố giác, điều tra khỏi nguy cơ bị trả thù hoặc bị cô lập.

Ba là, phát triển tòa giáo dục chuyên trách xử lý các vụ việc liên quan đến liêm chính khoa học và đạo đức nghề nghiệp. Đây là cơ quan có chức năng tiếp nhận, điều tra và đưa ra phán quyết chuyên sâu đối với các vụ việc vi phạm liêm chính khoa học. Bên cạnh Trung tâm liêm chính khoa học quốc gia (một đề xuất trước đây của người viết), tòa giáo dục sẽ đóng vai trò là tổ chức trung gian, có thẩm quyền điều tra, đánh giá và ra quyết định xử lý cuối cùng đối với các hành vi sai phạm như gian lận dữ liệu, đạo văn, xung đột lợi ích,…. Sự tồn tại của một tòa chuyên biệt chuyên trách xử lý các vụ việc liên quan đến liêm chính khoa học và đạo đức nghề nghiệp sẽ giúp chuẩn hóa quy trình xử lý, đảm bảo rằng các quyết định không bị ảnh hưởng bởi áp lực nội bộ của cơ sở đào tạo, giáo dục, nghiên cứu; đồng thời bảo vệ quyền lợi của cả người bị cáo buộc lẫn người tố giác.

Tài liệu tham khảo

Armond, A.C., Cobey, K.D. and Moher, D. (2024), “Research Integrity definitions and challenges”, Journal of Clinical Epidemiology, 171, 111367, https://doi.org/10.1016/j.jclinepi.2024.111367

Columbia Center for Teaching and Learning (n.d.), “... Darsee and Slutsky cases in the 1980's”, https://ccnmtl.columbia.edu/projects/rcr/rcr_authorship/foundation/sideBar_darseeSlutsky.html, truy cập ngày 21/10/2025.

Nguyen, L.T. and Tuamsuk, K. (2024), “Factors influencing researchers’ scientific integrity in scholarly publishing: a path analysis approach”, Research Ethics, 21(3), 384-407, https://doi.org/10.1177/17470161241257445

Nguyen, L.T. and Tuamsuk, K. (2025), “Scientific Integrity of Researchers in Scholarly Publishing”, Research Ethics, Journal of Academic Ethics, 23(4), pp.1991-2013, https://doi.org/10.1007/s10805-025-09638-8

The Office of Research Integrity (n.d.), “Whistleblowers: Handling Misconduct - Complainant”, https://ori.hhs.gov/whistleblowers, truy cập ngày 21/10/2025.

(*) Bài viết có tham khảo nguồn từ ChatGPT và quan điểm của các nghiên cứu trước đây. Tuy nhiên, ý tưởng, cấu trúc của bài viết, các lập luận, đánh giá, phân tích và luận điểm khoa học chính trong bài viết là do tác giả xây dựng, chỉnh lý, kiểm chứng và chịu trách nhiệm.

(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.

Nguyễn Hoàng Nam

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/mot-so-kien-nghi-nham-hoan-thien-chinh-sach-liem-chinh-khoa-hoc-post255715.gd