Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 - 3/2/2025)Những mốc son trong hành trình 95 năm của Đảng
Kể từ khi ra đời, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt đối trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, giành những thắng lợi to lớn, vẻ vang, tiến hành đổi mới, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Ngày 3-2-1930, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam
Cách đây 95 năm, từ ngày 3 đến 7-2-1930, tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản ở Việt Nam là Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Hội nghị nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Ngày 3-2-1930 trở thành Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết tinh của chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đây là sự kiện đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng kéo dài về đường lối cứu nước. Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng thông qua, đã xác định Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945), Cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Sau khi ra đời, chỉ trong vòng 15 năm, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn. Đó là: Cao trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh; cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939); cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945) mà đỉnh cao là Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Thắng lợi đã đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Đây còn là minh chứng hùng hồn cho vai trò không thể thay thế của Đảng trong việc đưa dân tộc thoát khỏi bóng tối nô lệ, bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do.
Kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) thành công với Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”
Sau khi bị lật đổ quyền cai trị ở Đông Dương, thực dân Pháp quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam lần thứ 2. Nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lại đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp. Đảng đã khéo léo kết hợp sức mạnh dân tộc với tinh thần quốc tế, tập hợp toàn dân đứng lên kháng chiến bằng ý chí "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” năm 1954 đã trở thành biểu tượng của lòng yêu nước và trí tuệ Việt Nam, đặt dấu chấm hết cho chế độ thực dân trên lãnh thổ nước ta. Trong giai đoạn này, với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, Thủ đô Hà Nội là nơi nổ phát súng đầu tiên và cũng là nơi đón đoàn quân chiến thắng trở về vào ngày 10-10-1954.
Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với đại thắng mùa Xuân 1975 và xây dựng chủ nghĩa xã hội (1954 - 1975)
Sau Hiệp định Genève 1954, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, nhân dân bắt tay vào khôi phục kinh tế - văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó ở miền Nam, đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Genève, hất cẳng thực dân Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự.
Thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược "kháng chiến chống Mỹ, cứu nước", "xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc", Đảng ta tiếp tục phát huy bản lĩnh lãnh đạo, vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn, kết hợp giữa đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao. Từ phong trào Đồng Khởi (1959 - 1960) đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, mùa Xuân năm 1975, với đường lối đúng đắn, nhạy bén và linh hoạt, Đảng ta đã huy động được sức mạnh của toàn dân tộc, biến ý chí thành hành động cách mạng, giành thắng lợi vĩ đại, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Thống nhất hai miền, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước (1975 - 1986)
Sau khi đất nước hòa bình, thống nhất, tình hình kinh tế - xã hội gặp muôn vàn khó khăn. Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tinh thần Việt Nam tiếp tục tỏa sáng như một sức mạnh nội sinh to lớn, giúp dân tộc vượt qua giai đoạn đầy thử thách. Đảng đã lãnh đạo Nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế, vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chính nghĩa ở biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Cả nước đã đoàn kết xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Đặc biệt, trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng đã tổng kết thực tiễn, thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém, kể cả khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo, về mô hình quản lý kinh tế; đồng thời tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới như ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) về “Phương hướng nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương"; Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp"; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa V) thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa; Kết luận của Bộ Chính trị (tháng 8-1986) về 3 quan điểm kinh tế trong tình hình mới...
Khởi xướng và lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới đất nước (từ năm 1986 đến nay)
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986), Đảng khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, tạo ra bước ngoặt to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tiếp đó, Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, xác định rõ quan điểm và phương hướng phát triển đất nước, tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực; khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Các nghị quyết của Đảng từ Đại hội VIII đến nay tiếp tục khẳng định sự kiên định, kiên trì thực hiện đường lối đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Tại Đại hội XI của Đảng (năm 2011), “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (năm 1991) được bổ sung, phát triển. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới không ngừng được bổ sung, phát triển. Ðảng Cộng sản Việt Nam từng bước hoàn thiện và cụ thể hóa định hướng đổi mới, phát triển, xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm trong từng giai đoạn.
Gần 40 năm qua, Việt Nam đã có bước chuyển mình toàn diện. Từ một nước bị cấm vận, chịu muôn vàn khó khăn, đến nay, Việt Nam là một trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và trong tốp 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài. Quy mô GDP nền kinh tế năm 2024 đạt mức 11.512 nghìn tỷ đồng, tương đương 476 tỷ USD; GDP bình quân đầu người đạt 4.700 USD (gần 120 triệu đồng), tăng 377 USD so với năm 2023.
Việt Nam hôm nay không chỉ là đối tác tin cậy mà còn là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Nước ta hiện có quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia; xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với các cường quốc trên thế giới; ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các hiệp định thế hệ mới, mở ra cánh cửa lớn cho xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài... Đất nước ta chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Quyết tâm đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
95 năm qua cùng với sự lớn mạnh của Đảng, số lượng đảng viên cũng không ngừng gia tăng. Nếu như tại Đại hội lần thứ I (1935) Đảng ta có khoảng 500 đảng viên thì đến nay, con số này đã là trên 5,6 triệu.
Một trong những yếu tố then chốt làm nên sức mạnh và uy tín của Đảng chính là tinh thần tự phê bình và phê bình, tất cả cùng nỗ lực không ngừng xây dựng, chỉnh đốn để tự làm mới và hoàn thiện mình. Đặc biệt, Đảng luôn thực hiện phương châm “dân là gốc”, gắn bó máu thịt với nhân dân, coi lòng dân là “quốc bảo” xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Niềm tin của nhân dân dành cho Đảng được xây dựng từ thực tiễn lịch sử đầy tự hào, nơi mọi thắng lợi của cách mạng đều là sự hòa quyện giữa "ý Đảng - lòng dân". Nhân dân tin tưởng rằng, với đường lối đúng đắn và quyết tâm đổi mới mạnh mẽ, Đảng tiếp tục là ngọn cờ dẫn lối, khơi dậy khát vọng phát triển.
Với tầm nhìn chiến lược và khát vọng xây dựng một Việt Nam hùng cường vào giữa thế kỷ XXI, Đảng ta tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo tiên phong, định hướng con đường phát triển đất nước trên nền tảng độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và hội nhập quốc tế sâu rộng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng diễn ra đầu năm 2026 sẽ ghi một dấu son mới thể hiện quyết tâm mạnh mẽ đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Nhân dân tin tưởng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng quang vinh, đất nước ta sẽ tiếp tục chinh phục những đỉnh cao mới, ghi dấu ấn xứng đáng trên bản đồ thế giới.