Điện về với Trường Sơn
Những bản làng dưới cánh rừng Trường Sơn giáp biên giới thăm thẳm đã sáng bừng ánh điện. Người Vân Kiều bao năm gần như chỉ biết bấu víu vào rừng núi. Điện về những bản nhỏ không chỉ làm thay đổi đời sống tinh thần của người dân mà còn mở ra niềm hy vọng, hứa hẹn xóa đi cái đói, cái nghèo bám riết đời người.
Niềm mơ ước trên đỉnh Trường Sơn
Bao nhiêu năm rồi không ai nhớ nữa, người Trường Sơn đã mong về “cái điện”. Nơi ấy giáp biên với nước bạn Lào, có những bản làng cách trung tâm xã khoảng 20 - 25 km theo đường chim bay. Có những bản người Vân Kiều nằm sâu trong núi rừng Trường Sơn như Hôi Rấy, Nước Đắng, Dốc Mây, Rìn Rin... không có đường đi vào. Muốn ra vào bản, người dân phải cắt đường rừng, di chuyển hàng giờ đồng hồ bằng xe máy, đi bộ, luồn rừng lội suối mới ra đến trung tâm xã. Xã Trường Sơn sau sáp nhập có tới 17 bản thuộc “vùng lõm” không điện, không sóng điện thoại. Và điện trở thành mơ ước của nhiều hộ dân ở miền thăm thẳm này.

Những người thợ điện Quảng Trị nỗ lực mang điện lưới quốc gia về các bản làng giáp biên giới Trường Sơn
Giữa đại ngàn Trường Sơn xa thăm thẳm, những bản làng còn “lõm điện, lõm sóng” đang dần bừng lên ánh sáng. Những người thợ điện Quảng Trị miệt mài ngày đêm vượt suối, băng rừng, mang nguồn sáng về với bà con, góp phần nâng cao đời sống và thắp lên niềm hy vọng mới đổi thay cho những bản xa. Đổi lại niềm hạnh phúc ấy của đồng bào là những ngày tháng cực nhọc khó có thể nói thành lời. Trường Sơn là một trong những địa bàn vùng sâu, vùng xa giáp biên giới. Nhiều bản như A Ky, Cu Tồn, Troi, Rìn Rìn, Hôi Rấy, Nước Đắng, Đoòng, Dốc Mây… nằm cách lưới điện trung áp từ 6 đến gần 20 km. Địa hình rừng núi dốc đứng, đường đi chủ yếu là lối mòn, nhiều đoạn phải vượt suối hoặc đi thuyền. Điều kiện này khiến việc đầu tư điện lưới dài hạn cần nhiều thời gian, trong khi nhu cầu sử dụng điện phục vụ sinh hoạt và phục vụ trạm BTS là vô cùng cấp thiết. Trên cơ sở đó, ngành điện Quảng Trị lập phương án gồm hai hướng là kéo điện lưới cho 7 bản và sử dụng máy phát điện kết hợp kéo lưới hạ áp tạm thời cho 10 bản còn lại. Tổng mức đầu tư hơn 7 tỉ đồng, cùng chi phí vận hành máy phát ước tính gần 12 tỉ đồng mỗi năm.
Để kéo điện về với những bản làng xa khuất ấy, người thợ điện đối diện với sự hiểm trở, gập ghềnh của những cung đường đồi núi. Anh Nguyễn Duy Tuyến, Đội phó Đội quản lý điện Bố Trạch cho biết, một bên là vách đá dựng đứng, một bên là bờ vực chênh vênh của thượng nguồn sông Long Đại với nhiều đoạn đường hẹp. Những ngày cuối năm mưa lũ triền miên, nhiều đoạn vướng “ổ voi, ổ gà”, đá lởm chởm, dốc dựng đứng trơn trượt; nhiều chỗ, cây rừng ngã đổ chắn ngang đường, nhiều đoạn phải vượt suối hoặc đi thuyền làm những người thợ phải vất vả và kiên nhẫn lắm mới có thể vượt qua được.
Vận chuyển trang thiết bị đã khó nhưng thi công lại còn gian nan hơn nhiều. Toàn bộ từ khâu tạo mặt bằng, đào hố móng, đổ bê tông, kéo cột và dây điện về nhà dân đều được thực hiện bằng sức người. Thế mới có thể hình dung hết những nhọc nhằn, khó khăn, vất vả của những người thợ trong công cuộc “kéo điện lên non” đến với các thôn, bản của xã vùng biên giới này. “Nhiều thôn, bản chưa có điện nằm ở địa hình xa cách, hiểm trở nhưng điện là nhu cầu thiết yếu của người dân và là điều kiện để đồng bào hòa nhập với đời sống số, dù phải vận chuyển vật tư bằng xe máy, đi bộ hàng chục cây số hay vượt sông suối bằng thuyền. Để xóa “vùng trắng điện”, các đội thi công phải lưu trú nhiều ngày tại hiện trường để dựng cột, kéo dây, lắp công tơ, xây nhà đặt máy phát và hướng dẫn người dân vận hành an toàn. Lực lượng điện lực cũng phối hợp với chính quyền xã để huy động người dân hỗ trợ vận chuyển vật tư, mở đường, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình triển khai. Đây vừa là trách nhiệm xã hội, vừa là cam kết của ngành điện đối với đồng bào vùng cao”, ông Hoàng Hiếu Trung, Giám đốc Công ty điện lực Quảng Trị cho biết.
Để đưa được dòng điện lưới quốc gia về với bà con các dân tộc nơi đây, những người thợ điện nếu không có tình yêu nghề thực sự cũng như tinh thần trách nhiệm cao thì chắc chắn không bám trụ được với công việc này. Đáng nói hơn, đó là từ câu chuyện đưa điện về vùng cao, càng thấy được trách nhiệm của ngành điện với xã hội, với cộng đồng, điều mà bấy lâu nay không phải ai cũng hiểu được. Do đó, việc đầu tư lưới điện ở khu vực này đòi hỏi nguồn vốn lớn, thời gian thi công kéo dài. Bên cạnh đó, sản lượng điện tiêu thụ ở những khu vực này cũng rất thấp.

Địa hình khó khăn, nhiều khu vực phải vận chuyển vật liệu bằng thuyền vượt sông
Vì vậy, khi đầu tư điện cho khu vực nông thôn, miền núi, ngành điện lực cũng xác định không thể đo đếm lợi nhuận, hiệu quả kinh tế mà phải đặt ý nghĩa chính trị - xã hội, trách nhiệm vì cộng đồng làm mục tiêu. Mỗi ánh đèn sáng lên giữa bản xa là minh chứng cho nỗ lực không ngừng của ngành điện trong hành trình xóa “vùng trắng điện”, bảo đảm thông tin liên lạc, nâng cao đời sống người dân và thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ở khu vực biên giới. Công ty điện lực Quảng Trị đang dốc toàn lực triển khai phương án cấp điện cho 17 thôn, bản lõm sóng, lõm điện, phấn đấu hoàn thành trước ngày 15/12/2025 theo chỉ đạo của Tập đoàn Điện lực Việt Nam.
Bản nhỏ bừng ánh điện
Xã Trường Sơn hiện có hơn 50% dân số là đồng bào dân tộc Vân Kiều, tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo toàn xã chiếm gần 33%. Thiếu tư liệu sản xuất, địa hình chia cắt phức tạp, hạ tầng yếu khiến cuộc sống người dân gặp rất nhiều khó khăn. Đảng và Nhà nước đã và đang triển khai nhiều dự án hỗ trợ sinh kế ở vùng đất này. Ai đã từng đến với xã Trường Sơn những năm trước đây hẳn trong ký ức vẫn còn ám ảnh về sự cách trở, nghèo nàn và lạc hậu. Cái đói, cái nghèo cứ quanh quẩn trong những căn nhà sàn trống hoác, xác xơ đọng vào trong những đôi mắt buồn nhìn vào xa xăm vô định của những người già và sự ngơ ngác của lũ trẻ. Tại xã Trường Sơn sau sáp nhập, diện tích rộng, địa hình chia cắt, một số thôn bản không có sóng điện thoại, không có điện; đường sá đi lại khó khăn khiến việc triển khai các chủ trương chính sách của Nhà nước không hề dễ dàng. Ngay cả hệ thống truyền thanh cũng rất khó hoạt động khiến việc tuyên truyền các chính sách của Đảng và Nhà nước rất khó khăn. Không chỉ thế, việc thiếu điện cũng khiến việc dạy và học của thầy trò nhiều trường học khó khăn trăm bề. Do chưa có điện sinh hoạt nên mọi công việc chủ yếu được làm tranh thủ vào ban ngày, ban đêm phải dùng đèn dầu hoặc đèn pin thắp sáng. Cuộc sống của các hộ dân nơi đây gặp nhiều khó khăn do không được tiếp cận thông tin liên lạc, không được xem ti vi, không có phương tiện để phục vụ sản xuất. Thiếu điện, dẫn tới hàng loạt những thiếu thốn khác.

Kéo điện về với bản làng Vân Kiều
Lần đầu tiên nhìn thấy ánh sáng của những chiếc bóng điện được thắp lên từ điện lưới quốc gia, anh Hồ Văn Nhát, Bí thư Chi bộ bản Ploang (xã Trường Sơn) không giấu được xúc động, mắt cứ dán vào những trụ điện, những đường dây điện giăng trên không trung. Anh Hồ Văn Nhát hồ hởi kể, không có điện, người làng đốt đèn dầu. Lũ trẻ mỗi tối học bài cũng chong đèn dầu lên. Người lớn chẳng có cái ti vi để xem tin tức, chẳng có cái gì để xem xã hội bên ngoài phát triển tới đâu để học hỏi nên cứ quanh quẩn ngày ngày lên nương lên rẫy, tối về làm vài ly rượu rồi ngủ. Không được tiếp cận thông tin từ ti vi hay mạng xã hội, đồng bào chỉ ngước mắt nhìn trời gieo hạt. Kinh nghiệm không phải bao giờ cũng đúng, diện tích sản xuất năm được năm mất, thất bát triền miên một phần cũng vì thế. Không có điện lưới, hệ thống truyền thanh cơ sở, nếu được trang bị cũng vô nghĩa. Mỗi lần họp chi bộ, thay vì lên loa truyền thanh thông báo hoặc gọi điện thoại cho từng đảng viên thì không có sóng điện thoại nên phải đến từng nhà thông báo. Điện đã về, cái đói cái nghèo sẽ lùi vào quá khứ, chắc chắn đời sống đồng bào sẽ khá hơn. Một cuộc sống với những luồng sinh khí mới hạnh phúc hơn, đầy đủ hơn, no ấm hơn đang dần hiện hữu trên mảnh đất này.
Còn anh Nguyễn Văn Muôn mới ngoài 30 tuổi nhưng đã có 5 năm làm trưởng bản Sắt. Ước nguyện của Muôn cũng là niềm mong mỏi bấy lâu của dân bản. Là ánh sáng cho dân bản, là con đường thuận lợi hơn để nối nhịp cầu với thế giới bên ngoài, là sóng điện thoại để dân bản được tiếp cận với thông tin, mở mang chút kiến thức, thay đổi lề lối làm ăn, hiểu hơn về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cứ ở mãi giữa bốn bề núi rừng, con người sẽ quên đi ngoài kia là cả một thế giới mênh mông vô cùng tận. Ước mơ ấy của Muôn đã bắt đầu thành hiện thực, khi điện đã về với đồng bào ở bản Sắt này. Và trong khuôn mặt rạng rỡ của Muôn, đã mơ tới viễn cảnh bản làng sẽ đổi thay nhiều lắm, sẽ có tivi cho mỗi nhà, đường làng sẽ sáng trưng ánh điện mỗi đêm, lũ trẻ sẽ học và chơi trong ánh điện; bà con sẽ được tiếp cận rất nhiều kỹ thuật canh tác nông, lâm nghiệp như trồng rừng, trồng sắn, làm lúa nước trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tối tối, người làng sẽ ngồi xem thời sự, xem các chương trình khuyến nông, cùng bàn cách làm ăn, sẽ mua máy móc phục vụ cho việc sản xuất.

Nhiều bản làng vùng lõm không điện lưới, không sóng điện thoại ở Trường Sơn
Địa bàn rộng, nguồn lực đầu tư điện cho khu vực vùng sâu, vùng xa tương đối lớn. Đây là khó khăn, thách thức không nhỏ đối với ngành điện trong quá trình phục vụ điện sinh hoạt, sản xuất của người dân. Vài năm trở lại đây, với nhiều công trình, dự án được đầu tư, nâng cấp, trong đó nguồn lực từ Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi triển khai kịp thời đã và đang tạo điều kiện cho nhiều hộ dân tiếp cận điện lưới quốc gia, góp phần thay đổi diện mạo khu vực vùng biên, vùng đồng bào DTTS. Ông Đặng Văn Bình, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã Trường Sơn cho biết, khi có điện lưới quốc gia, đời sống của người dân nơi đây chắc chắn sẽ từng bước được nâng cao. Bà con được tiếp cận các thông tin truyền thông tốt hơn cũng như có điện phục vụ sản xuất, trên địa bàn có nhiều mô hình kinh tế chăn nuôi, xay xát, sản xuất được hưởng lợi, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho các hộ dân. Điện về các bản làng vùng lõm sẽ không chỉ làm thay đổi đời sống tinh thần của người dân, mà còn mở ra niềm hy vọng, hứa hẹn giảm đi cái đói, cái nghèo từng bám lấy người dân nơi đây.
Bây giờ, đứng trên những đỉnh núi phóng tầm mắt nhìn về phía bản xa, những hàng cột điện mới toanh, vững chãi băng qua núi cao, vực sâu, đưa điện từ nhà máy về các thôn làng như sợi chỉ đỏ nối liền sự phát triển với vùng biên xa xôi. Bởi có điện, người dân có thể nghe radio, xem tivi, tiếp xúc với thế giới bên ngoài qua thông tin hằng ngày; trẻ em học bài dưới ánh đèn điện, được tiếp xúc với các dụng cụ học đường tiên tiến; cán bộ xã dùng máy vi tính thay cho cái máy chữ cũ kỹ. Điều mà ai cũng tin tưởng rằng “cái điện” sẽ đem lại ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Điện về các bản làng, trong mắt người Vân Kiều nơi đây đã thấy phấp phới niềm hy vọng đổi thay. Một bộ mặt khác, cuộc sống khác đang lặng lẽ ươm mầm tươi sáng hơn cho mai này.
Nguồn ANTG: https://antg.cand.com.vn/phong-su/dien-ve-voi-truong-son-i791154/












