Đại tướng Văn Tiến Dũng và trận đánh làm nên lịch sử
Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch quyết chiến chiến lược trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Đại tướng Văn Tiến Dũng với cách đánh mang đậm tư tưởng 'táo bạo thọc sâu kết hợp vu hồi và đột phá mạnh vòng ngoài' trong Chiến dịch Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng làm nên chiến thắng này.
Đầu năm 1975, nhằm tăng cường sự lãnh đạo và chỉ huy cuộc Tổng tiến công chiến lược Xuân năm 1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định cử Đoàn đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh ở chiến trường miền Nam, do Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng, chỉ huy.
Ngay khi vừa đến Sở Chỉ huy của cơ quan đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh đặt ở tây thị xã Buôn Ma Thuột, Đại tướng đã công bố quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên và bàn bạc kế hoạch tác chiến.
Rút kinh nghiệm những chiến dịch trước, căn cứ vào điều kiện chiến trường, vào thế và lực của ta, Đại tướng Văn Tiến Dũng và Bộ Tư lệnh Chiến dịch xác định phương án tác chiến trong Chiến dịch Tây Nguyên:
Sử dụng lực lượng tương đối lớn để cắt các đường giao thông (14, 19, 21), tạo ra thế chia cắt địch về chiến lược, tách Tây Nguyên với đồng bằng ven biển; phải cô lập Buôn Ma Thuột với Pleiku, Pleiku với Kon Tum; đồng thời tích cực hoạt động nghi binh, giam chân địch, thu hút sự chú ý và lôi kéo lực lượng của chúng về phía Bắc Tây Nguyên, tạo điều kiện cho ta có thể giữ bí mật bất ngờ ở phía Nam cho đến khi nổ súng đánh Buôn Ma Thuột.
Tổ chức thực hiện chắc thắng trận then chốt mở đầu Chiến dịch, đánh chiếm Buôn Ma Thuột bằng cách tổ chức lực lượng đột kích binh chủng hợp thành tương đối mạnh cỡ trung đoàn; tập kích từ xa vận động đến, bỏ qua các mục tiêu địch bảo vệ vòng ngoài, bất ngờ thọc sâu vào bên trong thị xã phối hợp với các đơn vị đặc công và bộ binh bí mật bố trí sẵn từ trước, nhanh chóng tiêu diệt ngay các mục tiêu chỉ huy đầu não và vị trí xung yếu, đánh chiếm vững chắc các bàn đạp bên trong xong rồi mới từ trong thị xã đánh ra ngoài tiêu diệt những cứ điểm cô lập đã mất chỉ huy.
Trong quá trình đó, ta phải nhanh chóng hình thành ngay một lực lượng dự bị binh chủng hợp thành mạnh, sẵn sàng đánh bại các cuộc phản kích của địch hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột.
Ngày 4/3/1975, Chiến dịch Tây Nguyên chính thức bắt đầu. Ngày 10/3/1975, ta nổ súng tiến công Buôn Ma Thuột; tiếp đó đập tan cuộc phản kích của Sư đoàn 23 địch.
Bị thất bại và uy hiếp nặng nề, địch rút khỏi Kon Tum, Pleiku, theo đường số 7 về đồng bằng ven biển. Ta kịp thời truy kích, tiêu diệt và bắt sống gần hết quân địch rút chạy.
Chiến thắng trong Chiến dịch Tây Nguyên đã làm thay đổi cơ bản so sánh lực lượng và thế chiến lược giữa ta và địch, tạo bước ngoặt quyết định, đưa cuộc tiến công chiến lược của ta phát triển thành cuộc Tổng tiến công trên toàn miền Nam.
Sau những thắng lợi tạo tiền đề vững chắc của Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch giải phóng Trị Thiên-Huế và Chiến dịch giải phóng Đà Nẵng, thời cơ để ta mở Tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn-Gia Định đã chín muồi. Bộ Chính trị đã thành lập Bộ Chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn, sau đổi tên thành Chiến dịch Hồ Chí Minh. Đại tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, được cử làm Tư lệnh chiến dịch.
Trước khi ra quyết định, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã trăn trở rất nhiều: Đánh vào Sài Gòn như thế nào cho nhanh, chắc thắng, làm sụp đổ cả chế độ phản động, đập tan cả hệ thống tổ chức quân đội và chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến cơ sở, phá tan bộ máy chiến tranh..., nhưng lại phải đánh như thế nào để thành phố ít bị tàn phá nhất, giải phóng được mấy triệu đồng bào mà không làm cho nhân dân bị thiệt hại nhiều về tính mạng, tài sản và bảo đảm cuộc sống nhanh trở lại bình thường.
Để giải quyết vấn đề này, Đại tướng cùng tập thể Bộ Chỉ huy Chiến dịch đã phân tích vấn đề một cách thấu đáo, toàn diện, cụ thể, tìm ra phương án tối ưu nhất, chọn ra 5 mục tiêu "trọng huyệt" của địch để nhanh chóng chiếm lĩnh trong thời gian ngắn nhất.
Trên cơ sở thế trận và lực lượng áp đảo, Đại tướng cùng Bộ Chỉ huy Chiến dịch đi tới nhất trí về cách đánh của chiến dịch, đó là: “Dùng một lực lượng thích hợp trên từng hướng, đủ sức hình thành bao vây, chia cắt, chặn giữ quân địch không cho chúng rút chạy hoặc lùi dồn về Sài Gòn. Tiêu diệt và làm tan rã tại chỗ các sư đoàn bộ binh chủ lực của địch phòng thủ vòng ngoài; đồng thời dùng đại bộ phận lực lượng nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm các địa bàn then chốt ở vùng ven, mở đường cho các binh đoàn đột kích cơ giới mạnh đã được tổ chức chặt chẽ, tiến nhanh theo các trục đường lớn đánh thẳng vào 5 mục tiêu chủ yếu đã được chọn lựa trong nội thành: Bộ Tổng tham mưu ngụy, Sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Tổng nha Cảnh sát và Dinh Độc Lập”.
Các lực lượng đặc công, các đội biệt động, các lực lượng an ninh vũ trang và tự vệ thành phố, các lực lượng chính trị của quần chúng ở Sài Gòn - Gia Định sẽ đánh chiếm trước các cầu qua sông, làm bàn đạp cho bộ đội chủ lực tiến quân, dẫn đường cho các đơn vị, trừ gian và phát động quần chúng nổi dậy.
Bộ Chỉ huy Chiến dịch cũng xây dựng một kế hoạch nổi dậy của quần chúng để phối hợp chặt chẽ với tiến công quân sự. Lực lượng chủ lực tiến công hình thành 5 cánh, mỗi cánh tương đương 1 quân đoàn, do những tướng lĩnh có tài chỉ huy. Các mũi, các cánh sau khi đánh chiếm các mục tiêu và khu vực được phân công phải nhanh chóng đến hợp điểm ở Dinh Độc Lập.
Với cách đánh này, Chiến dịch Hồ Chí Minh đã diễn ra như dự kiến và toàn thắng.