Chuyện tình bi thảm ít người biết của một vị công chúa triều Trần
Người đó là công chúa Trần Quỳnh Trân, con vua Trần Thánh Tông, chị ruột vua Trần Nhân Tông, còn có biệt danh là Thiên Thụy công chúa. Sử sách ít chép về bà mặc dù đây là nhân vật rất đặc biệt, có lẽ do ngại đụng chạm đến tầm vóc của nhà Trần.
Mỗi lần về quê, tôi đều ghé thăm đền Mõ (ở xã Ngũ Phúc, H.Kiến Thụy, Hải Phòng) nơi thờ bà công chúa Quỳnh Trân và nghe nhiều sự tích về bà.
Trần Quỳnh Trân (? – 1308) là con vua Trần Thánh Tông và cung phi Vũ Thị Ngọc Lan. Bà cũng là chị ruột của vua Trần Nhân Tông. Do được phong là Thiên Thụy công chúa nên sử chép về bà đều chép là Thiên Thụy. Bia đá dựng ở đền Mõ cả nghìn chữ còn kể lại khá chi tiết về cuộc đời bà. Xung quanh vị công chúa đặc biệt này cũng có nhiều chuyện truyền miệng từ đời này qua đời khác bởi chính sử thời phong kiến (thông giám) ngại biên chép lại những mặt “trái” không hay của triều đại, dù đó là một triều lừng lẫy, nổi danh như nhà Trần.
Chuyện kể rằng Quỳnh Trân xinh đẹp hiền dịu, rất được vua cha yêu quý. Bấy giờ Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư là một viên tướng kiêu dũng trí lược nổi danh trong triều. Năm 1257 khi quân Nguyên xâm lược Đại Việt lần thứ nhất, viên tướng trẻ Trần Khánh Dư đã lập mưu đánh bại một cánh quân của giặc, được vua Thánh Tông nhận làm Thiên tử nghĩa nam (con nuôi vua), phong làm Phiêu kỵ đại tướng quân, một chức tước mà đương thời, nếu không phải là hoàng tử thì không được phong. Là con nuôi vua, Nhân Huệ vương Khánh Dư thường tự do ra vào nơi cung cấm. Trước vẻ ung dung tự tại của vị tướng trẻ tài giỏi, Quỳnh Trân vô cùng ngưỡng mộ, rồi không biết từ lúc nào đôi trai tài gái sắc đó đã yêu nhau say đắm.
Song thật trớ trêu, Hưng Vũ vương Nghiễn, tức Trần Quốc Nghiễn - con trai Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn cũng say mê công chúa Quỳnh Trân. Hưng Đạo vương dù biết công chúa đã yêu Trần Khánh Dư nhưng vẫn lấy uy thế của mình cứ một mực dạm hỏi xin cưới Quỳnh Trân cho Hưng Vũ vương. Không dám từ chối một người đang là trụ cột triều đình như Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, vua Trần Thánh Tông đành phải hứa gả. Sau thời gian lần khân không đồng ý, không thể cưỡng lệnh cha, Quỳnh Trân đành phải về với Hưng Vũ vương.
Tình cũ không rủ cũng theo. Không dứt được tình, sau đó Trần Khánh Dư và công chúa Quỳnh Trân vẫn gặp nhau, rồi chuyện tình lén lút của hai người bị phát giác. Sự kiện tày trời đồn khắp trong ngoài triều đình, cha con Hưng Đạo vương rất tức giận. Bấy giờ vua Nhân Tông đã lên nối ngôi cha, ngổn ngang trăm mối: sợ phật ý Hưng Đạo vương, nhưng lại thương chị gái (Quỳnh Trân), tiếc người tài (Khánh Dư), nên đức vua vờ ban lệnh cho đánh chết Khánh Dư nhưng ngầm dặn không được đánh chết, sau đó xuống chiếu đoạt hết quan tước, tịch thu tài sản của Khánh Dư không để lại một chút gì. Khánh Dư hiểu thân phận mình phải lui về Chí Linh là thái ấp của phụ thân ông, ngày ngày đội nón lá mặc áo ngắn đi bán than. Còn Quỳnh Trân bị cha con Hưng Đạo vương trả về sống tại cung riêng, không còn quan hệ gì với Trần Quốc Nghiễn nữa.
Năm 1282, quân Nguyên lăm le xâm lược Đại Việt lần thứ hai, vua Trần mở hội nghị Bình Than bàn kế chống giặc. Tại bến Bình Than, nhà vua Trần Nhân Tông bất chợt trông thấy Khánh Dư chèo chiếc thuyền lớn chở đầy than củi lướt qua. Đang cần tướng giỏi để cầm quân chống giặc, ngài mừng rỡ sai người dùng khinh thuyền đuổi theo triệu Khánh Dư đến, rồi cho theo xa giá về lại triều và phong ngay làm Phó đô tướng quân, quản lãnh một cánh quân mạnh chuẩn bị chặn giặc.
Về lại Thăng Long, Khánh Dư và Quỳnh Trân lại có cơ hội gặp nhau. Tình cũ chưa nguôi, họ lại quấn quýt không rời, đến nỗi chính sử phải chép: “Rút cuộc Khánh Dư cũng không sửa được lỗi lầm cũ”. Mối tình của hai người chắc hẳn phải ầm ĩ lắm nên sử mới chép kỹ đến như vậy.
Sau đó, do để giữ thể diện cho hoàng gia, vua Nhân Tông buộc lòng phải lệnh cho chị mình, công chúa Quỳnh Trân xuất gia. Không còn cách nào khác, đầu năm 1284, công chúa Quỳnh Trân giã từ lầu son gác tía kinh đô, đến với mảnh đất ven sông Văn Úc hoang sơ chọn một gò đất cao lập am tu hành.
Tại nơi tu hành, bà lập điền trang trồng cấy lương thực, mở chợ cho dân buôn bán, quy tụ dân trong vùng đến làm ăn sinh sống, hình thành nên trang Nghi Dương (nay là xã Ngũ Phúc, H.Kiến Thụy, Hải Phòng). Cái am nhỏ dần được bà dựng thành chùa, đêm ngày bà chuyên tâm gõ mõ tụng kinh niệm Phật, dân quanh vùng quen với tiếng mõ của bà, từ đó gọi ngôi chùa với cái tên mộc mạc là chùa Mõ. Trong thời gian tu hành, bà thường cứu cấp chẩn bần, đem kiến thức của mình giáo hóa nhân dân, khuyến khích dân khai khẩn đất hoang, phát triển nông tang, lập thêm làng xóm. Có năm bị thiên tai mất mùa, bà xin vua miễn thuế cho năm xã trong vùng, dân rất nhớ ơn. Sau bà trở thành ni sư nổi tiếng, được tôn gọi là Thiền Đức đại ni.
Cuối năm 1284, quân Nguyên do Trấn nam vương Thoát Hoan chỉ huy tiến sang xâm lược nước ta. Năm 1285, tướng giặc là Ô Mã Nhi tiến đánh Vân Đồn, Vạn Kiếp, phòng tuyến bị phá vỡ. Trước thế giặc hung hãn, nhiều tôn thất nhà Trần và một số tướng soái đã hoảng sợ đầu hàng, vua tôi Trần Nhân Tông phải rút chạy vào Nghệ An. Thoát Hoan dồn binh lực đuổi theo. Trong tình thế vô cùng nguy cấp, triều đình buộc phải họp bàn tìm kế hoãn binh. Kế hoạch cử người sang gặp Thoát Hoan để cầu hòa được đa số tán đồng. Ngoài các lễ vật quý giá đưa sang làm quà tặng, triều đình quyết định chọn một công chúa có nhan sắc dâng cho Thoát Hoan để cầu thân. Người đầu tiên được triều đình bàn tới là công chúa Quỳnh Trân. Quỳnh Trân được đón về triều, song trước sự phản đối kiên quyết của bà, nhà vua đành để bà trở về am cũ (người bị thay bà là An Tư công chúa). Từ đó Quỳnh Trân một lòng quy Phật, mối tình với Khánh Dư bà mãi mãi chôn chặt trong lòng.
Theo sách Nam ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng, tháng 10/1308, bà ốm nặng, Thượng hoàng Nhân Tông bấy giờ là Trúc Lâm đại sĩ, đang tu trên núi Yên Tử hạ sơn đến thăm chị gái. Trước lúc ra về, ngài ngậm ngùi cầm tay bà nói: “Nếu chị đã đến ngày đến giờ thì cứ đi, Âm phủ có hỏi thì bảo rằng, xin đợi một chút, em tôi là Trúc Lâm đại sĩ sẽ tới ngay”. Về điều này, sách Nam ông mộng lục ghi cụ thể rằng: “Đại sĩ tại Tử Tiêu, văn tỉ bệnh cức, nãi hạ sơn vãng thị, vị Thiên Thụy viết "tỉ nhược thời chí, tự khứ, kiến minh gian vấn sự tắc ứng viết: nguyện thiếu đãi, ngã đệ Trúc Lâm đại sĩ thả chí". Ngôn bất hoàn sơn. Sổ nhật chí am, phân phó đệ tử hậu sự, yểm nhiên tọa hóa. Thiên Thụy diệc dĩ thị nhật tốt” (Đại sĩ ở Tử Tiêu, nghe tin chị hấp hối, bèn xuống núi lại thăm, nói với Thiên Thụy "nếu chị đến lúc rồi thì cứ đi, dưới âm phủ có hỏi chuyện thì nhớ trả lời: xin đợi một chút, em ta là Trúc Lâm đại sĩ sẽ đến". Nói xong về núi. Đi mấy ngày đến am, dặn dò đồ đệ hậu sự, bỗng nhiên ngài ngồi hóa. Thiên Thụy cũng ngày hôm đó qua đời).
Ngày mùng 3/11/1308 bà chúa Mõ mất. Quả nhiên, cùng ngày hôm đó Thượng hoàng Nhân Tông cũng băng hà. Nhân Tông là em ruột, lại là người chứng kiến cũng như xử lý toàn bộ chuyện tình ngang trái bi kịch của công chúa Quỳnh Trân nên đã rất hiểu và vô cùng thương người chị gái đa đoan của mình.
Sau khi bà viên tịch, dân trong vùng cảm công đức của bà đã lập đền thờ ngay tại nơi bà tu hành, tôn bà làm phúc thần, ngôi đền cũng được gọi bằng cái tên rất dân gian là đền Mõ.