Cách nói ẩn dụ hé lộ điều gì về thế giới quan người Việt?
Vì sao người Việt thường dùng hình dáng của cây trái, hoa lá để chỉ bộ phận cơ thể người: trái tim, trái cật, quả thận, lá gan, lá lách, lá phổi, buồng phổi, bắp tay, cuống phổi, nụ cười…?
Trong đời sống, có rất nhiều cách nói ẩn dụ hoặc hoán dụ đã trở thành quen thuộc, quen đến mức chúng ta không nghĩ nhiều về nó và không nhận ra nó đặc biệt đến thế nào.
Cuốn sách Tiếng Việt - Lạ mà quen, PGS.TS Trịnh Sâm sẽ giúp chúng ta nhận ra những cái “lạ” trong những cách diễn đạt quen thuộc, để hiểu thêm về tiếng Việt và tâm hồn người Việt mình.

Sách Tiếng Việt lạ mà quen. Ảnh: ML.
Ngôn ngữ học tri nhận
Tiếng Việt - Lạ mà quen tập trung tìm hiểu sâu về ẩn dụ tiếng Việt từ quan điểm ngôn ngữ học tri nhận. Đây là một phân ngành còn non trẻ, được khởi xướng từ những năm 80 của thế kỷ XX, với những tên tuổi như Lakoff G. và Johnson M.
Theo ngôn ngữ học tri nhận, ngôn ngữ không phản ánh trực tiếp thế giới khách quan, mà phản ánh cách con người nhìn nhận về thế giới. Con người (chủ thể) tương tác với thế giới qua những trải nghiệm cá nhân, từ đó có cách hình dung và diễn giải riêng về thế giới xung quanh, tạo thành một hệ thống ý niệm về thế giới trong tâm trí.
Ý niệm vừa là công cụ, vừa là sản phẩm của tư duy, kết quả của sự tương tác giữa con người với thế giới, nó thể hiện cảm xúc, trí tuệ, tầm nhìn của một cộng đồng diễn ngôn.
Ngôn ngữ học tri nhận nghiên cứu ngôn ngữ dựa trên kinh nghiệm và cảm thụ của con người về thế giới, cũng như cách con người ý niệm hóa các sự vật của thế giới khách quan.
Theo quan điểm ngôn ngữ học tri nhận, ẩn dụ và hoán dụ không chỉ đơn thuần là biện pháp tu từ, mà là một cách thức tư duy của con người.
Ẩn dụ và hoán dụ là thao tác ý niệm hóa, giúp chúng ta hiểu sự vật hiện tượng này thông qua sự vật hiện tượng khác, dựa vào miền ý niệm này để nhận thức miền ý niệm khác. Ẩn dụ được xây dựng trên một phép ánh xạ (mapping) thông qua những trải nghiệm trực tiếp hoặc gián tiếp của con người, gọi là ẩn dụ ý niệm.
Một ví dụ đơn giản cho ẩn dụ ý niệm là: Thời gian (ý niệm đích) - là (ánh xạ) - vàng bạc (ý niệm nguồn). Trong đó, con người dùng hiểu biết về tiền bạc (cụ thể) để tri nhận ý niệm thời gian (trừu tượng).

PGS.TS Trịnh Sâm. Nguồn: vanvn.
Từ ẩn dụ đến thế giới quan
Từ các vấn đề lý thuyết, PGS.TS Trịnh Sâm dẫn dắt bạn đọc khám phá các ẩn dụ có tính phổ quát, tiêu biểu trong ngữ liệu tiếng Việt, đồng thời so sánh với các ngôn ngữ khác để tìm ra nét đặc trưng của ngôn ngữ Việt, tư duy người Việt.
Một ví dụ được đề cập đến nhiều lần xuyên suốt cuốn sách là miền ý niệm sông nước. Do đất nước ta vốn có hệ thống sông ngòi chằng chịt, người Việt Nam đã sống dựa vào nước, sống gắn bó với nước từ hàng nghìn năm nay. Sông nước vì vậy mà có vai trò rất lớn trong không gian tinh thần của chúng ta, ảnh hưởng đến nếp sống nếp nghĩ và cả triết lý dân gian.
Theo ngôn ngữ học tri nhận, mảng hiện thực nào gần gũi và quen thuộc với cộng đồng diễn ngôn thì xuất hiện nhiều nhất và có tầm tác động lớn nhất trong suy nghĩ và hành động của họ. Chúng ta có đến gần 500 đơn vị thành ngữ, tục ngữ về sông nước.
Sông nước xuất hiện rất nhiều trong lời ăn tiếng nói của chúng ta, ở cả những ngữ cảnh không liên quan đến sông nước: đi trên bờ mà dùng lặn lội (lặn lội đến thăm nhau) mà dùng “quá giang” (qua sông), đi trên bờ mà dùng bến (bến xe đò), nó xuống nước, được nước lấn tới, tràn ngập niềm vui, lạ nước lạ cái, tình cảm cạn kiệt…
Có những cách nói như vậy là vì người Việt thường dùng miền nguồn sông nước để ánh xạ lên nhiều miền đích thông qua các ẩn dụ ý niệm như: Đời người là đời của con sông: con người sinh ra từ nước (nước ối), chết về với nước (suối vàng, chín suối, nước tiên, nước Phật); Hành trình đời người là hành trình của dòng sông: Sông có khúc, người có lúc, có đục trong của nước và đục trong của cuộc đời, Biển lặng sóng êm, Xuôi chèo mát mái, Thuận buồm xuôi gió, Gió dập sóng dồi, Lên thác xuống ghềnh…; Ứng xử với cuộc đời là ứng xử với sông nước: Coi gió bỏ buồm; Lựa chiều bẻ lái; Theo nước lượn thuyền…; Xã hội là vật chứa nước: thượng lưu, trung lưu, hạ lưu
Trong tiếng Anh, có một số ẩn dụ từ miền nguồn sông nước như giao thông là dòng sông (traffic is a river), vấn đề khó khăn là một vùng nước (a problem is a body of water). Cách ý niệm hóa “vấn đề là vùng nước” rất khác với tiếng Việt. Trong tiếng Trung, cấu tạo đặc biệt của chữ Hán cho phép ý niệm nước được mở rộng sang nhiều trường từ vựng, nhiều lĩnh vực nhận thức thông qua việc ghép bộ thủy với các bộ khác.
Tương tự với miền ý niệm sông nước còn có miền ý niệm cây cối, với một số ẩn dụ phổ quát như: con người là thực vật, đời người là đời thực vật. Người Việt dùng hình dáng của cây trái, hoa lá để chỉ bộ phận cơ thể người: trái tim, trái cật, quả thận, lá gan, lá lách, lá phổi, buồng phổi, bắp tay, cuống phổi, nụ cười…
Con người là cây nên có người là cây đa cây đề, có người là loại cỏ rơm, cỏ lác. Từ hoa rụng, hoa nở, hạt giống mọc lên… ta có những cách nói: răng rụng, tóc rụng, nở nụ cười, mọc mụn, mọc răng, mọc sừng… Quan hệ giữa người với người là quan hệ lá lành lá rách, bầu bí, vả và sung…
Cũng gần gũi với chúng ta không kém miền ý niệm sông nước và cây cỏ là miền ý niệm thực phẩm. Cái ăn là cái thiết yếu đối với con người, là nỗi lo canh cánh của nhiều người Việt qua hàng nghìn năm nay.
Do đó, miền nguồn thực phẩm đã trở thành xuất phát điểm cho nhiều ẩn dụ tiếng Việt, có thể kể ra một số ví dụ như sau: Vóc dáng con người là thực phẩm, Năng lực, Vị thế xã hội là thực phẩm, Địa thế là thực phẩm, Công cụ (phương tiện) là thực phẩm. Cũng vì vậy mà chúng ta thường quy mọi thứ về thang đánh giá ngon/dở: ngủ ngon, ngon mắt, body ngon, chiếc xe ngon, miếng đất ngon, hợp đồng béo bở, chức vụ ngon, ứng xử dở, nói chuyện dở, phim dở…
Thông qua việc phân tích các miền ý niệm sông nước, miền ý niệm cỏ cây, miền ý niệm thực phẩm, PGS.TS Trịnh Sâm đã tìm ra nhiều nét đặc trưng trong thế giới quan của người Việt. Trong đó, sông nước, thiên nhiên, thực phẩm có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần của chúng ta, ảnh hưởng sâu sắc đến nếp nghĩ và nền văn hóa của dân tộc ta. Qua đây, ta cũng thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa ngôn ngữ và tư duy, giữa ngôn ngữ và văn hóa.