Cách mạng Tháng Tám với việc xác lập và kiến tạo nền cộng hòa dân chủ pháp quyền ở Việt Nam:Từ thực tế lịch sử đến tầm nhìn thời đại (*)

Giành độc lập dân tộc và kiến tạo nền cộng hòa dân chủ pháp quyền là hai thành tựu quan trọng nhất, có ý nghĩa to lớn nhất của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam.

Điều đặc biệt là: Nền cộng hòa dân chủ và pháp quyền được xác lập ở Việt Nam khi đó là nền cộng hòa đầu tiên ra đời ở châu Á và là nền cộng hòa mang đậm tính chất dân tộc, dân chủ, pháp quyền - đây chính là tầm vóc thời đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam.

Đông đảo nhân dân tập trung tại Quảng trường Ba Đình nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, ngày 2-9-1945. Ảnh: TTXVN

Đông đảo nhân dân tập trung tại Quảng trường Ba Đình nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, ngày 2-9-1945. Ảnh: TTXVN

1. Cách mạng Tháng Tám thành công. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Lâm thời Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức ra mắt quốc dân đồng bào. Cũng tại buổi lễ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử, công bố với quốc dân đồng bào và toàn thế giới về nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia thống nhất và sự ra đời của chế độ cộng hòa dân chủ.

Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên diễn ra vào ngày 6-1-1946 chính là dấu mốc vĩ đại cho thấy nhân dân ta đã bước lên địa vị những người quốc dân tự do dùng lá phiếu của mình để thực thi quyền và nghĩa vụ công dân của mình, xác lập nên chính thể mới, chế độ mới: Chế độ dân chủ cộng hòa, pháp quyền và dân chủ.

Một điểm cần đặc biệt chú ý là tên gọi của chính phủ cách mạng được thành lập và chính thức ra mắt sau thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa là Lâm thời Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Vấn đề đặt ra là tại sao lại gọi là “Lâm thời Chính phủ” (Provisional Government), chứ không phải là một chính phủ chính thức?

Trước hết, thể theo đúng quyết nghị của Quốc dân Đại hội tổ chức ngày 16-8-1945 tại Tân Trào (Tuyên Quang) thì sau khi giành được chính quyền, Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam sẽ chuyển thành Lâm thời Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 28-8-1945, để củng cố thêm khối đại đoàn kết dân tộc và nâng cao tính chất đại diện cho toàn dân của Chính phủ, Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã quyết định cải tổ thành phần Chính phủ, theo đó, nhiều cán bộ lãnh đạo của Đảng đã tự nguyện rút lui để nhường chỗ cho một số nhân sĩ ngoài Đảng. Mặc dù vậy, lãnh tụ Hồ Chí Minh vẫn gọi đó là Lâm thời Chính phủ.

Theo nguyên tắc kiến lập của nền cộng hòa dân chủ thì các chính phủ đều phải chính thức được phê chuẩn bởi một thiết chế dân cử (quốc hội hoặc nghị viện). Thiết chế đó sẽ định ra hiến pháp và hệ thống luật, coi đó là căn cứ để thực thi chế độ dân chủ pháp quyền. Chỉ có như vậy thì chính phủ mới có đầy đủ tính chính đáng chính trị (political legitimacy), mới có thể được quốc tế công nhận và các quyết định của nó mới có giá trị pháp lý. Đây chính là lý do mà ngay sau Lễ Tuyên ngôn độc lập, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ (ngày 3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu đề nghị: “Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu, nghèo, tôn giáo, dòng giống…”.

Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên diễn ra vào ngày 6-1-1946 chính là dấu mốc vĩ đại cho thấy nhân dân ta đã bước lên địa vị những người quốc dân tự do dùng lá phiếu của mình để thực thi quyền và nghĩa vụ công dân của mình, xác lập nên chính thể mới, chế độ mới: Chế độ dân chủ cộng hòa, pháp quyền và dân chủ.

Cần phải đặc biệt nhấn mạnh rằng, cuộc bầu cử được tổ chức thành công ở Việt Nam đầu năm 1946 là cuộc tổng tuyển cử đầu tiên ở châu Á theo nguyên tắc và thể thức dân chủ, pháp quyền: Phổ thông, bình đẳng, tự do và bỏ phiếu kín.

Với nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh giảng giải: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà”. Còn đối với những người được nhân dân bầu vào Quốc hội, Người yêu cầu: “Những người trúng cử, sẽ phải ra sức giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, ra sức mưu sự hạnh phúc cho đồng bào. Phải luôn luôn nhớ và thực hành câu: Vì lợi nước, quên lợi nhà, vì lợi chung, quên lợi riêng. Phải làm cho xứng đáng với đồng bào, cho xứng đáng với Tổ quốc”.

Kế tục thiết chế tiền thân là Quốc dân Đại hội (8-1945), Quốc hội khóa I đã hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ vĩ đại: Chung đúc ý chí, nguyện vọng của toàn dân tộc kiến tạo nên nền móng vững chắc của chế độ dân chủ cộng hòa. Việc quan trọng nhất mà Quốc hội khóa I đã hoàn thành và để lại ảnh hưởng sâu đậm, lâu dài nhất trong toàn bộ lịch sử hiện đại của dân tộc ta là soạn thảo thành công và thông qua bản Hiến pháp đầu tiên. Đây là bản hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước ta, đồng thời cũng là bản hiến pháp đầu tiên trong lịch sử toàn châu Á được biên soạn và thông qua theo nguyên tắc dân chủ - pháp quyền.

Điều 1 của Hiến pháp trang trọng ghi rõ nguyên tắc chính trị tối thượng của nước Việt Nam mới là: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Điều 2 của Hiến pháp ghi rõ: “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia”. Bản Hiến pháp cũng chế định rõ địa vị bình đẳng pháp lý của mọi công dân Việt Nam về mọi phương diện, quy định rõ quyền và nghĩa vụ của công dân, trong đó có những nhân quyền cơ bản, như: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài. Đặc biệt là quyền “được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình”. Đây là những điều khoản chưa từng xuất hiện trong các văn bản pháp quy của bất kỳ quốc gia châu Á nào và cũng không xuất hiện trong hiến pháp của nhiều nước phương Tây khi đó.

Một thành tựu khác rất to lớn, có ý nghĩa sâu sắc và tác động lâu dài trong lịch sử dân tộc của Quốc hội khóa I là đã thượng tôn và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Trong Diễn văn khai mạc kỳ họp thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, Quốc hội khóa I “là kết quả của sự đoàn kết anh dũng phấn đấu của toàn thể đồng bào Việt Nam ta, sự đoàn kết của toàn thể đồng bào không kể già trẻ, lớn bé, gồm tất cả các tôn giáo, tất cả các dân tộc trên bờ cõi Việt Nam đoàn kết chặt chẽ thành một khối hy sinh không sợ nguy hiểm tranh lấy nền độc lập cho Tổ quốc”. Trên tinh thần đó, ngay trong phiên họp đầu tiên, để mở rộng hơn nữa, củng cố hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc, Quốc hội khóa I đã chấp nhận lời thỉnh cầu của Chủ tịch Chính phủ liên hiệp lâm thời đồng ý dành 70 ghế cho các đại biểu của Việt Nam Quốc dân đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội tham gia Quốc hội mà không qua bầu cử. Có thể thấy, Quốc hội khóa I vừa thượng tôn nguyên tắc dân chủ - pháp quyền, nhưng cũng luôn đặt lợi ích và vận mệnh quốc gia - dân tộc lên trên hết. Đó là một bài học rất sâu sắc đối với toàn bộ nền chính trị Việt Nam hiện đại.

2. Tư tưởng cộng hòa và chính thể cộng hòa là những thành tựu vĩ đại trong lịch sử chính trị của nhân loại. Với hai thiết chế trụ cột là cơ cấu quyền lực do bầu cử và hệ thống pháp luật, chế độ cộng hòa, dù tồn tại trong các hình thức khác nhau, luôn được xem là cơ sở nền tảng của Nhà nước dân chủ và pháp quyền, là mặt đối lập trực tiếp và toàn diện với chế độ quân chủ chuyên chế.

Trong tất cả các tổ chức yêu nước và cách mạng ở Việt Nam cận đại, Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức luôn trung thành với tư tưởng cộng hòa và luôn coi việc kiến lập một nền cộng hòa dân chủ là một mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam. Xét về bản chất, đây chính là mục tiêu chung của cả cuộc vận động dân tộc và dân chủ, phản đế và phản phong. Bởi lẽ, không thể xác lập được nền cộng hòa nếu không giải phóng được dân tộc, đồng thời, chỉ có thể giải phóng dân tộc khi đặt cuộc đấu tranh đó trên nền tảng của cuộc đấu tranh giải phóng con người, giải phóng xã hội.

Tác giả và là vị Tổng công trình sư vĩ đại của nền cộng hòa dân chủ, pháp quyền Việt Nam chính là lãnh tụ Hồ Chí Minh. Chính Người đã truyền bá tư tưởng về nền cộng hòa hiện đại vào cách mạng Việt Nam, là người trực tiếp phát triển tư tưởng đó thành những nguyên tắc chính trị để kiến lập chế độ cộng hòa dân chủ và pháp quyền ở Việt Nam. Lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng là người trực tiếp lãnh đạo và chỉ đạo công cuộc kiến tạo nền cộng hòa đó trong thực tiễn, ghi dấu ấn sâu đậm với những sáng kiến mang tầm vóc chiến lược, như triệu tập Quốc dân Đại hội, thành lập Ủy ban Dân tộc Giải phóng, thành lập và cải tổ Lâm thời Chính phủ, tổ chức Tổng tuyển cử để tạo ra Quốc hội lập pháp và xây dựng bản Hiến pháp đầu tiên… Những đóng góp vô cùng to lớn đó của Người thực sự đã góp phần quyết định tạo dựng nên nền tảng cho chế độ chính trị Việt Nam hiện đại.

Nghiên cứu về lịch sử kiến lập chế độ cộng hòa dân chủ và pháp quyền ở Việt Nam 80 năm trước không chỉ giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về thành tựu, tính chất và ý nghĩa lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Tám mà còn rút ra được bài học có ý nghĩa thực tiễn cao cho công cuộc đổi mới hệ thống chính trị hiện nay. Đó là: Phải bảo đảm nguyên tắc nền tảng của chế độ cộng hòa, đó là dân chủ và pháp quyền; phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, đồng thời phải tuân thủ những nguyên tắc, thể thức và thông lệ quốc tế. Có như vậy nền cộng hòa dân chủ, pháp quyền mới thực sự phát huy được công năng của nó trong sự nghiệp phát triển bền vững đất nước.
______

(*) Trích tham luận của GS.TS Phạm Hồng Tung, nguyên Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển (Đại học Quốc gia Hà Nội) tại Hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề "Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9: Giá trị thời đại và sức sống trường tồn".

GS.TS Phạm Hồng Tung

Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/cach-mang-thang-tam-voi-viec-xac-lap-va-kien-tao-nen-cong-hoa-dan-chu-phap-quyen-o-viet-nam-tu-thuc-te-lich-su-den-tam-nhin-thoi-dai-713690.html