Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với bài học xây dựng hệ thể chế trong kỷ nguyên mơíBài cuối: Khẳng định cơ đồ, vị thế, uy tín của đất nước

Trong bối cảnh chuyển mình lịch sử của dân tộc, Việt Nam không chỉ bảo vệ nền độc lập như sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mà đã tiến xa hơn, đó là khẳng định cơ đồ, vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Đó là quyết tâm tiến bước vào kỷ nguyên vươn mình phát triển mạnh mẽ, đúng như kỳ vọng lịch sử từng mở ra vào mùa Thu năm 1945.

Không khí Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội ngày 19-8-1945. Ảnh: TTXVN

Không khí Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội ngày 19-8-1945. Ảnh: TTXVN

Phát huy những bài học về xây dựng hệ thể chế sau Cách mạng Tháng Tám

Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, với những đặc trưng nổi bật, như: Chuyển đổi mô hình phát triển từ tăng trưởng theo chiều rộng sang chiều sâu, dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; hội nhập quốc tế toàn diện, là đối tác chiến lược của nhiều quốc gia, thành viên tích cực trong các tổ chức quốc tế; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, xây dựng chính phủ số, kinh tế số và xã hội số; tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, quản trị hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia... với những cơ hội lớn, như khoa học - công nghệ phát triển nhanh mở ra khả năng rút ngắn khoảng cách phát triển; giai đoạn dân số vàng, tầng lớp trí thức, chuyên gia ngày càng đông đảo; vị thế địa chính trị của Việt Nam ngày càng tăng lên. Tuy nhiên, sự biến động an ninh, kinh tế, chính trị quốc tế ngày càng phức tạp; yêu cầu quản trị hiện đại; khoảng cách phát triển, nguy cơ tụt hậu nếu không kịp đổi mới thể chế... là những thách thức không hề nhỏ, đặt ra yêu cầu phải có một hệ thể chế đủ mạnh, linh hoạt, hiện đại để không chỉ giữ vững ổn định chính trị - xã hội, mà còn dẫn dắt quá trình phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Những bài học về xây dựng hệ thể chế sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cần được kế thừa, phát huy để hoàn thiện hệ thể chế ở nước ta theo hướng hiện đại hóa, đó là: Tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật nhằm tháo gỡ "nút thắt", "điểm nghẽn", khơi thông nguồn lực phát triển đất nước. Kế thừa những thành quả xây dựng hệ thể chế quốc gia từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong 80 năm qua, Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc vai trò của thể chế, pháp luật đối với sự phát triển của đất nước và đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách về hoàn thiện thể chế, pháp luật phù hợp với từng giai đoạn lịch sử và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đến nay, nước ta đã hình thành hệ thống thể chế, pháp luật tương đối đồng bộ, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận, cơ bản điều chỉnh tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, tạo nền tảng pháp lý để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế.

Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới, thể chế, pháp luật vẫn còn nhiều bất cập, chồng chéo, thiếu minh bạch, gây cản trở đến đổi mới sáng tạo, năng lực cạnh tranh quốc gia và hiệu quả quản trị quốc gia. Để hiện thực hóa khát vọng vươn mình của dân tộc, chúng ta phải giải quyết nhiều việc, trong đó, một nhiệm vụ rất trọng tâm là phải tiếp tục quan tâm hoàn thiện thể chế, pháp luật nhằm tháo gỡ "nút thắt", "điểm nghẽn", giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực, phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước, tận dụng mọi cơ hội phát triển.

Phát huy bài học xây dựng hệ thể chế sau thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trong kỷ nguyên mới đòi hỏi phải hành động nhanh, quyết đoán trong khởi tạo và sửa đổi thể chế, không để lỡ thời cơ. Cần quyết liệt cắt bỏ các rào cản, tháo gỡ "nút thắt", "điểm nghẽn" về thể chế hiện nay.

Trọng tâm là: Tăng cường sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng thể chế, pháp luật và phát huy cao độ tính Đảng trong xây dựng thể chế, pháp luật. Xây dựng hệ thống thể chế, pháp luật mang tính tổng thể, minh bạch, ổn định, khả thi, có khả năng thích ứng linh hoạt với biến động. Đổi mới cách tiếp cận: Thay vì kiểm soát, cấm đoán, cần "mở rộng không gian pháp lý", trao quyền nhiều hơn cho các chủ thể xã hội. Đẩy mạnh công khai, minh bạch trong quy trình xây dựng chính sách, pháp luật, có cơ chế phản biện xã hội, đánh giá tác động chính sách, tăng sự tham gia của người dân, doanh nghiệp. Phát huy cao độ tinh thần phục vụ nhân dân, tư duy kiến tạo phát triển, hành động vì lợi ích chung của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Thực hiện các giải pháp đột phá nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật; tăng cường chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, cùng cơ chế tài chính đặc biệt cho công tác xây dựng và thi hành thể chế, pháp luật.

Đồng thời phải chú trọng phát huy dân chủ, vai trò chủ thể của nhân dân. Mọi thể chế nếu không đặt nhân dân vào vị trí trung tâm thì tất yếu sẽ đánh mất nền tảng chính trị - xã hội vững chắc và lâu bền. Từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, bài học lớn nhất là phát huy cao độ tinh thần làm chủ của nhân dân, không chỉ trong khởi nghĩa giành chính quyền, mà còn trong việc xây dựng thể chế mới. Từ tổng tuyển cử đến lập hiến, tổ chức chính quyền các cấp, tự quản ở làng xã...

Trong kỷ nguyên mới, đòi hỏi phát triển toàn diện và bền vững càng đặt ra yêu cầu phải nâng tầm vai trò chủ thể của nhân dân từ đối tượng thụ hưởng thành chủ thể kiến tạo, đồng hành và kiểm soát quyền lực.

Cần tiếp tục thể chế hóa nguyên tắc "nhân dân làm chủ" trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị - xã hội, từ hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, đến giám sát thực thi và phản biện xã hội. Việc phát triển đồng bộ các hình thức dân chủ: Dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện là con đường căn bản để hiện thực hóa điều đó. Chính nhân dân chứ không phải một lực lượng nào khác mới là yếu tố bảo đảm cho một hệ thể chế vững mạnh, linh hoạt, hiệu quả.

Tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả việc sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và chính quyền địa phương 2 cấp. Để khắc phục những hạn chế, bất cập về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị như tổ chức cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian, chức năng chồng chéo và cơ chế phối hợp vướng mắc, khó xác định trách nhiệm... dẫn đến hiệu suất làm việc thấp, thủ tục hành chính rườm rà, cán bộ quan liêu, trì trệ trong giải quyết công việc; đồng thời để mở ra không gian phát triển mới, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế, tăng cường liên kết vùng và gia tăng nguồn lực phát triển cho các địa phương và là cơ hội, tiền đề để đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững và bước vào kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc, Việt Nam đã thực hiện cuộc cách mạng sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính, xây dựng chính quyền địa phương 2 cấp theo tinh thần quyết liệt "vừa chạy, vừa xếp hàng", "chỉ bàn làm, không bàn lùi".

Phát huy bài học xây dựng hệ thống thiết chế quản trị từ trung ương đến cơ sở sau thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đòi hỏi phải tiếp tục tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cấp ủy, cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên trong hệ thống Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân về mô hình tổ chức bộ máy mới. Hoàn thiện thể chế, quy định pháp luật nhằm bảo đảm thể chế hóa kịp thời chủ trương, chính sách của Đảng về đổi mới tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị trong thực tiễn. Rà soát toàn bộ hệ thống quy định, văn bản liên quan để sửa đổi, bổ sung phù hợp với mô hình tổ chức bộ máy mới, kịp thời tháo gỡ "điểm nghẽn", rào cản phát triển; huy động, khơi thông mọi nguồn lực bên trong, bên ngoài, nguồn lực trong dân, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm.

Bên cạnh đó, cần theo dõi, bám sát việc triển khai thực hiện thể chế, pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động của cơ quan, tổ chức được xây dựng theo mô hình tổ chức bộ máy mới, đánh giá kết quả hoạt động, từ đó có giải pháp điều chỉnh kịp thời, khắc phục hạn chế, bất cập để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan, tổ chức.

Đồng thời, phải thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động bị ảnh hưởng. Cơ chế, chính sách phải bảo đảm tính công bằng, hài hòa trong tổng tương quan chung giữa các đối tượng nhằm ổn định cuộc sống, quyền và lợi ích để không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy. Việc xây dựng chính sách phải gắn với trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong đánh giá, sàng lọc, lựa chọn đối tượng nghỉ gắn với tinh giản biên chế và cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ, đồng thời không để chảy máu chất xám, bảo đảm duy trì và giữ chân cán bộ, công chức, viên chức tốt, có năng lực, phẩm chất ngang tầm nhiệm vụ. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm, kịp thời trường hợp lợi dụng việc sắp xếp tổ chức, gây mất đoàn kết nội bộ, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và cơ quan, tổ chức. Phát huy và tạo điều kiện thuận lợi cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia công tác giám sát, kiểm tra việc xây dựng mô hình tổ chức bộ máy mới.

Đổi mới tư duy, chính sách thể chế về nguồn lực con người

Một trong những điểm cần chú trọng, phát huy chính là đổi mới tư duy, chính sách thể chế về nguồn lực con người. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một trong những bài học sâu sắc và sáng suốt nhất là tư duy "trọng dụng nhân tài, không phân biệt thành phần xuất thân" của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Rất nhiều trí thức, chuyên gia, thậm chí từng phục vụ dưới chế độ cũ, đã được trọng dụng và trở thành những nhân tố nòng cốt trong việc hoạch định chính sách, xây dựng nền hành chính cách mạng, góp phần đặt nền móng cho hệ thể chế quốc gia non trẻ. Tư duy ấy đến nay vẫn còn nguyên giá trị và cần được tiếp tục khai thác, đổi mới mạnh mẽ trong hệ thể chế hiện đại.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, chuyển đổi số và cạnh tranh về trí tuệ ngày càng gay gắt, nguồn lực con người, đặc biệt là nhân tài, chuyên gia, trí thức chính là yếu tố quyết định năng lực thể chế và năng lực cạnh tranh quốc gia.

Để phát huy tối đa nguồn lực này, cần xây dựng thể chế khuyến khích, trọng dụng và bảo vệ người tài, tạo điều kiện để đội ngũ trí thức trong và ngoài nước được tham gia thực chất vào các quá trình như hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, cải cách hành chính, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo. Đồng thời, thể chế nhân sự quốc gia cần chuyển từ "quản lý con người" sang "tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện", lấy hiệu quả công việc và đóng góp thực chất làm thước đo, chứ không chỉ dựa vào lý lịch, cơ cấu hay hình thức hành chính. Đổi mới tư duy thể chế về nguồn lực con người chính là điều kiện tiên quyết để xây dựng một nhà nước kiến tạo, một nền quản trị có chiều sâu trí tuệ và có khả năng vượt qua những thách thức mới của thời đại.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ mang lại độc lập cho dân tộc, quyền làm chủ của nhân dân mà còn đặt nền móng cho việc xây dựng hệ thể chế quốc gia độc lập, dân chủ nhân dân với những bài học quý báu đối với cách mạng Việt Nam. Việc tiếp tục hoàn thiện hệ thể chế quốc gia không chỉ là phát huy di sản lịch sử, mà còn là yêu cầu bắt buộc để nâng cao năng lực quản trị quốc gia, bảo đảm dân chủ, phát triển nhanh và bền vững. Một hệ thể chế hiện đại, dân chủ, thích ứng sẽ là điều kiện quyết định để Việt Nam vươn mình mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới.

GS.TS Tạ Ngọc Tấn - Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương, nguyên Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/cach-mang-thang-tam-nam-1945-voi-bai-hoc-xay-dung-he-the-che-trong-ky-nguyen-moi-bai-cuoi-khang-dinh-co-do-vi-the-uy-tin-cua-dat-nuoc-713558.html