Văn hóa trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc: Thời cơ - Thách thức
Văn hóa là linh hồn, cốt lõi định hình bản sắc dân tộc, là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, nền tảng cho sự phát triển trường tồn của dân tộc. Trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên hội nhập và phát triển mạnh mẽ, văn hóa Việt Nam đứng trước nhiều thời cơ cũng như thách thức quan trọng, đòi hỏi những giải pháp, hành động cấp thiết để thúc đẩy sự phát triển và vươn mình trên trường quốc tế, bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Tại Hội nghị tổng kết năm 2024, triển khai nhiệm vụ trọng tâm 2025 ngành VHTTDL, Thủ tướng Phạm Minh Chính gợi ý ngành VHTTDL nhân rộng các mô hình hay, cách làm tốt, tạo phong trào, xu thế phát triển… ví dụ như 2 concert Anh trai vượt ngàn chông gai và Anh trai "say hi"
Sự hội nhập và giao thoa văn hóa toàn cầu
Với quá trình hội nhập quốc tế Việt Nam có cơ hội giao lưu và học hỏi từ nhiều nền văn hóa trên thế giới. Điều này tạo điều kiện cho sự đa dạng hóa văn hóa, đồng thời giúp văn hóa Việt Nam tiếp cận với nhiều xu hướng, phong cách, và công nghệ mới, làm phong phú thêm bản sắc dân tộc.
Cách mạng công nghiệp 4.0 với sự phát triển của Internet và công nghệ số mở ra cơ hội lớn để quảng bá và bảo tồn văn hóa. Thông qua các nền tảng kỹ thuật số, Việt Nam có thể dễ dàng đưa văn hóa của mình đến với bạn bè quốc tế, đồng thời giúp các thế hệ trẻ Việt Nam tiếp cận với văn hóa truyền thống một cách thuận tiện và sinh động.

Doanh nghiệp FDI đầu tư sản xuất bằng công nghệ hiện đại tại các khu công nghiệp, khu kinh tế của tỉnh Quảng Ninh. Ảnh: TTXVN
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước tiếp tục có những chủ trương, chính sách đầu tư phát triển kinh tế - xã hội nói chung và văn hóa nói riêng. Các hoạt động văn hóa nghệ thuật được đầu tư phát triển; các giá trị văn hóa truyền thống được quan tâm giữ gìn. Nhà nước Việt Nam ngày càng chú trọng bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc và khuyến khích phát triển văn hóa sáng tạo. Môi trường văn hóa được cải thiện, thiết chế văn hóa được quan tâm đầu tư gắn với cuộc vận động xây dựng nông thôn mới, đô thị thông minh. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo bền vững. Lĩnh vực xây dựng và phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển được quan tâm. Các chính sách này không chỉ giúp bảo vệ các di sản văn hóa mà còn thúc đẩy nền văn hóa sáng tạo, đưa văn hóa Việt Nam trở thành một phần quan trọng trong chiến lược phát triển quốc gia.
Việc xây dựng môi trường văn hóa đã được chú trọng, nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và của từng vùng, miền được kế thừa. Nhiều di sản văn hóa được bảo tồn, phát huy. Đời sống văn hóa của nhân dân không ngừng được cải thiện. Hoạt động xã hội hóa văn hóa ngày càng được mở rộng, hệ thống thiết chế văn hóa được đầu tư và từng bước chuyển đổi cơ chế, đổi mới về phương thức hoạt động. Chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa từng bước được nâng cao, lối sống văn minh, hiện đại được đẩy mạnh và tạo ra những tác động thiết thực. Sự quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với văn hóa Việt Nam: Việt Nam đã và đang thu hút sự chú ý từ cộng đồng quốc tế qua các sự kiện như nhiều di sản văn hóa được UNESCO công nhận, có các lễ hội truyền thống và sản phẩm văn hóa độc đáo. Điều này giúp nâng cao vị thế văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế và thúc đẩy du lịch văn hóa phát triển.
Nhận thức về tầm quan trọng của bản sắc văn hóa dân tộc trong cộng đồng ngày càng cao. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, đang dần nhận ra tầm quan trọng của việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc để không bị hòa tan trong dòng chảy văn hóa toàn cầu. Nhiều cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp đã tham gia vào các hoạt động bảo tồn, phục dựng các giá trị truyền thống và phát triển các sản phẩm văn hóa sáng tạo mang đậm bản sắc Việt Nam.
Nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh chóng tạo điều kiện cho việc đầu tư vào các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Sức mua và sự quan tâm của người dân đối với các sản phẩm văn hóa cũng gia tăng, giúp ngành văn hóa, giải trí và sáng tạo Việt Nam có thêm động lực để phát triển.
Việt Nam có một lực lượng nhân lực trẻ đông đảo, sáng tạo và cởi mở, luôn sẵn sàng khám phá, đổi mới và lan tỏa văn hóa Việt Nam đến với thế giới. Lực lượng này đang góp phần làm cho văn hóa Việt Nam trở nên phong phú, đa dạng và hội nhập mạnh mẽ hơn trên trường quốc tế. Các ngành công nghiệp văn hóa đang trở thành một ngành kinh tế quan trọng, mở ra cơ hội thúc đẩy phát triển văn hóa qua các sản phẩm văn hóa đa dạng như phim ảnh, âm nhạc, trò chơi điện tử và thời trang.
Xây dựng hệ giá trị văn hóa là vấn đề phức tạp và đòi hỏi một quá trình lâu dài bởi vì hệ giá trị là phần nền tảng tinh thần có gốc rễ sâu xa của mỗi con người, mỗi cá nhân và ít biến đổi hay chậm biến đổi theo bối cảnh kinh tế, xã hội nhưng lại có khả năng tác động đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Trong kỷ nguyên mới, khi đất nước Việt Nam đang bước vào thời kỳ hội nhập và phát triển mạnh mẽ, lĩnh vực văn hóa đóng vai trò rất quan trọng trong việc gìn giữ bản sắc dân tộc, đồng thời thúc đẩy sự phát triển bền vững.
Một số giải pháp cấp thiết, cần làm ngay trong lĩnh vực văn hóa nhằm giúp Việt Nam vươn mình trong thời kỳ mới:
Tập trung tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, chính sách
Để văn hóa thực sự vươn mình, không chỉ cần sự phát triển tự thân của văn hóa mà còn cần một nền tảng thể chế vững vàng, những chính sách đột phá và sự chung tay từ mọi thành phần xã hội. Từ đó, văn hóa Việt Nam không chỉ duy trì giá trị cốt lõi mà còn được tiếp thêm sức sống mới, sẵn sàng đón nhận những đổi thay và khẳng định vị thế quốc gia trong cộng đồng toàn cầu. Từ khi đổi mới đất nước đến nay, vấn đề thể chế, chính sách văn hóa đã được nhận biết và hoàn chỉnh, sửa chữa qua việc ban hành nhiều văn bản pháp luật của Quốc hội, Chính phủ, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch. Tuy vậy, vấn đề thể chế trong văn hóa hiện vẫn là một trở ngại lớn với nhiều vấn đề cần khắc phục: Thứ nhất là sự chồng chéo và mâu thuẫn trong nhiều văn bản luật ở cả trung ương và địa phương của những bộ, ban, ngành khác về nguồn nhân lực, nguồn tài chính, đất đai, tài sản, nhà cửa, tổ chức. Do vậy, làm giảm hiệu lực và hiệu quả của những chính sách văn hóa mà ngành văn hóa ban hành hay trình Quốc hội và Chính phủ ban hành.
Vấn đề thứ hai về thể chế văn hóa hiện nay là việc thực hiện những văn bản pháp luật về văn hóa chưa thật sự hiệu quả, một phần do tính chồng chéo đã nêu trên, một phần do nhận thức về vai trò của văn hóa trong xã hội chưa thật đúng và đủ, và một phần còn do năng lực của những cán bộ văn hóa chưa thật cao. Vấn đề thứ ba nằm ở việc nhiều văn bản pháp luật về văn hóa vẫn thiên về hướng quản lý nhiều hơn là thúc đẩy sự phát triển của văn hóa vốn đòi hỏi một tư duy về văn hóa thoáng và cởi mở hơn. Tức là thể chế văn hóa được ban hành cần hạn chế việc nhà nước can thiệp quá nhiều và quá sâu vào nhiều hoạt động văn hóa và cần chuyển từ tư duy quản lý, giám sát, kiểm tra của nhà nước sang tư duy nhà nước hỗ trợ và thúc đẩy văn hóa phát triển. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách phải bắt đầu từ tư duy mở, sẵn sàng đón nhận những ý tưởng đổi mới, khuyến khích sự sáng tạo và bảo vệ quyền lợi của người làm văn hóa. Để làm được điều này, các thể chế, chính sách văn hóa cần được xây dựng với tầm nhìn xa, không chỉ đáp ứng nhu cầu hiện tại mà còn phải tiên đoán được xu hướng tương lai, giúp văn hóa có thể linh hoạt thích nghi với những thay đổi của thời đại, góp phần tạo động lực phát triển hơn là duy trì tính ổn định và chưa đồng bộ như hiện nay.

Chương trình khai mạc Năm Du lịch quốc gia Điện Biên và Lễ hội Hoa ban năm 2024
Đầu tư phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật cần đáp ứng yêu cầu của thời đại mới. Từng bước cân đối cơ cấu nguồn lực cán bộ cho phù hợp. Có chính sách phát hiện, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, trọng dụng nhân tài. Đào tạo lực lượng lao động có các kỹ năng và chuyên môn phù hợp để thích ứng trong bối cảnh mới, có ước mơ và động lực, có năng lực sáng tạo, có khả năng thích ứng với môi trường chuyển đổi; Đầu tư vào giáo dục và đào tạo chuyên sâu trong các lĩnh vực như bảo tồn di sản, nghệ thuật, truyền thông văn hóa… để tạo ra một thế hệ chuyên gia có năng lực đóng góp vào việc phát triển văn hóa quốc gia.
Đặc biệt, đào tạo nguồn nhân lực nghệ thuật truyền thống là một vấn đề cấp bách hiện nay bởi vì nghệ thuật truyền thống như chèo, tuồng, cải lương... đang ngày càng sụt giảm số lượng khán giả cả trên truyền hình và ngoài rạp. Doanh thu của những tổ chức biểu diễn nghệ thuật truyền thống không cao và thu nhập của nghệ sĩ cũng chưa đủ để đảm bảo cho cuộc sống của họ. Trong bối cảnh này việc tuyển sinh những ngành nghệ thuật truyền thống ở bậc trung cấp, cao đẳng, đại học vẫn tiếp tục gặp khó và có xu hướng sụt giảm số sinh viên. Do đó việc có những ưu đãi học bổng và miễn học phí cho sinh viên những ngành này là một việc làm cần thiết. Chính sách tuyển dụng những sinh viên tốt nghiệp những ngành này về những tổ chức nghệ thuật cũng cần thay đổi theo hướng thu nhập tăng thêm cần phải cao hơn so với những loại hình nghệ thuật hiện đại như kịch nói hay ca nhạc vốn có nhiều khán giả hơn. Mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế và quảng bá mạnh mẽ văn hóa Việt Nam ra thế giới
Khi thế giới trở nên “phẳng” hơn trong thời đại công nghệ, việc hội nhập không chỉ giúp Việt Nam tiếp thu những tinh hoa văn hóa toàn cầu mà còn là cơ hội để chúng ta giới thiệu nét đặc sắc của mình với bạn bè quốc tế trong kỷ nguyên mới. Chủ động mở rộng, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc. Tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới. Khuyến khích các cá nhân tổ chức tham gia tích cực vào các hoạt động hợp tác quốc tế với tư cách là thành viên của các mạng lưới quốc tế về văn hóa, nghệ thuật. Đổi mới hình thức triển khai công tác ngoại giao văn hóa trong và ngoài nước, tích cực ứng dụng thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đáp ứng mục tiêu: Thúc đẩy quan hệ, hội nhập văn hóa, quảng bá đất nước, qua đó đóng góp vào xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời chủ động bảo vệ các giá trị, nền tảng tư tưởng của Đảng, thành quả của đất nước
trong kỷ nguyên mới.
Văn hóa Việt Nam đã hội nhập với văn hóa thế giới từ hơn ba thập niên qua với mức độ ngày càng sâu rộng qua quá trình giao lưu và tiếp xúc với văn hóa thế giới. Trong quá trình này yếu tố chủ đạo vẫn là sự tiếp nhận văn hóa thế giới vào văn hóa Việt Nam. Đây là một điều đúng đắn và tích cực nhưng nhìn một cách lâu dài thì mặt là những giá trị văn hóa Việt Nam không được biết đến nhiều và sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam chưa được phát huy và phát triển trên thế giới. Để giải quyết vấn đề này việc quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới cần được thực hiện mạnh mẽ hơn giai đoạn trước qua mọi kênh phù hợp như hệ thống truyền thông bao gồm truyền hình, phát thanh và Internet cần được tiếp tục đẩy mạnh. Việc thúc đẩy giao lưu hợp tác quốc tế nhằm giới thiệu văn hóa Việt Nam vẫn cần tiếp tục được thực hiện, để việc quảng bá và giới thiệu văn hóa nhanh chóng và có hiệu quả hơn.
Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa
Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng văn hóa Việt Nam, phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội và ổn định chính trị của đất nước trong kỷ nguyên mới, khiến cho văn hóa trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đòi hỏi hệ thống các giải pháp về chính sách, truyền thông, đào tạo nguồn nhân lực, nguồn lực. Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam trên cơ sở hướng tiếp cận tổng thể và hệ thống, bao gồm nhiều vấn đề tương tác và có mối liên quan mật thiết đến nhau như: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với các kỹ năng toàn diện về kinh doanh, quản trị, năng lực sáng tạo; xây dựng cơ chế tài chính, cơ chế pháp lý, phát triển các chương trình giáo dục, đào tạo và các mạng lưới làm việc, phát triển công chúng... Các hoạt động này mang tính tổng thể, đòi hỏi sự hợp tác giữa những bộ ngành khác nhau và liên quan đến tất cả các đối tác công và tư. Một cách tiếp cận chiến lược tổng thể là cần thiết, bao gồm sự cải tổ trong giáo dục, kỹ năng, hỗ trợ doanh nghiệp, phát triển thương hiệu và thị trường và sự tích hợp với các ngành có liên quan khác.
Công nghiệp văn hóa trong kỷ nguyên mới này cần phải có sự phát triển mạnh hơn giai đoạn trước. Muốn thực hiện được điều này cần phải cụ thể hóa những mục tiêu đã được nêu ra trong “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045”.
Tăng cường chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa
Chuyển đổi số trong văn hóa là một xu hướng tất yếu trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập toàn cầu. Chuyển đổi số trong văn hóa mang lại nhiều tác động tích cực, không chỉ giúp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa mà còn tạo động lực phát triển kinh tế, xã hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0. Đây là một bước đi chiến lược và cần thiết để đảm bảo rằng văn hóa Việt Nam không chỉ được lưu giữ mà còn phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên số.
Công nghệ số giúp lưu trữ và bảo tồn các tài nguyên văn hóa vật thể (hiện vật, kiến trúc) và phi vật thể (lễ hội, nghệ thuật biểu diễn) dưới dạng dữ liệu kỹ thuật số, bảo vệ chúng khỏi nguy cơ mai một hoặc bị hư hỏng theo thời gian. Bên cạnh đó, chuyển đổi số giúp nâng cao khả năng tiếp cận và quảng bá văn hóa cũng như cải thiện và hiện đại hóa quy trình quản lý văn hóa, thông qua ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data), giúp quản lý và phân bổ nguồn tài nguyên văn hóa hiệu quả hơn, là cơ sở cho các quyết định quản lý kịp thời và phù hợp hơn. Chuyển đổi số cũng góp phần tạo ra môi trường tương tác, giúp người dân dễ dàng tham gia sáng tạo và lan tỏa giá trị văn hóa thông qua các nền tảng trực tuyến, đặc biệt là giới trẻ, đồng thời giúp quảng bá văn hóa Việt Nam một cách thường xuyên, nhanh chóng, cập nhật trên trường quốc tế.
Chuyển đổi số trong văn hóa sẽ góp phần tạo dựng nên một xã hội số với một nền kinh tế số mạnh mẽ và năng động. Đây không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết để bảo tồn di sản văn hóa và phát huy bản sắc dân tộc, mà còn là cơ hội để đưa văn hóa Việt Nam hòa nhập mạnh mẽ vào dòng chảy văn minh toàn cầu. Việc thực hiện thành công chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa đòi hỏi sự đồng bộ trong chính sách, công nghệ, nguồn lực, và sự tham gia củacả mọi cá nhân, cộng đồng, tổ chức, đơn vị.
Bằng cách xây dựng một hệ thống thể chế, chính sách cho phát triển văn hóa mạnh mẽ, toàn diện, Việt Nam sẽ xây dựng nền văn hóa không chỉ là nền tảng của xã hội mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển, mang đến cho dân tộc “sức mạnh mềm” để đứng vững trong kỷ nguyên mới. Thể chế, chính sách sẽ là đôi cánh giúp văn hóa vươn cao, khẳng định vị thế trên trường quốc tế và là kim chỉ nam dẫn đường cho dân tộc đi tới tương lai.
Đổi mới tư duy, giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức trong toàn hệ thống chính trị, các tầng lớp xã hội
Thực hiện các hoạt động giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức trong toàn hệ thống chính trị và các tầng lớp xã hội về quan điểm, đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam để văn hóa vươn mình trong kỷ nguyên mới. Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, giáo dục về hệ giá trị, chuẩn mực, đạo đức, lối sống lành mạnh cho các cán bộ, đảng viên, người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Khuyến khích và phát huy vai trò của các cơ quan báo chí, truyền thông nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền. Tiếp tục mở rộng, phát huy hiệu quả công tác thông tin đối ngoại, phối hợp với các hãng thông tấn báo chí uy tín ở nước ngoài, các trung tâm văn hóa Việt Nam tại nước ngoài và các cộng đồng kiều bào Việt Nam để tuyên truyền, quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới.

Lễ hội trên sông Tràng An
Tăng cường đầu tư cho văn hóa
Đầu tư cho văn hóa không chỉ dành cho các ngành nghệ thuật như Hội họa, Âm nhạc, Điện ảnh… mà còn là xây dựng nền tảng giáo dục, để từ đó nuôi dưỡng ý thức về văn hóa cho mỗi người ngay từ khi còn nhỏ. Chính sách khuyến khích như giảm thuế cho các tổ chức nghệ thuật, tạo lập quỹ hỗ trợ sáng tạo, đầu tư xây dựng các cơ sở văn hóa, trung tâm nghệ thuật công cộng… là những biện pháp quan trọng giúp nâng cao đời sống văn hóa của xã hội, đồng thời tạo động lực cho sáng tạo nghệ thuật thăng hoa.
Tăng cường đầu tư cho văn hóa với sự cân bằng trong định hướng: đầu tư theo định hướng thị trường và đầu tư theo định hướng trợ cấp dịch vụ công. Nhà nước cần đầu tư vào những lĩnh vực nền tảng như củng cố hạ tầng thông tin và đào tạo, hỗ trợ pháp lý, tín dụng, đất đai và các cơ chế ưu đãi khác để thúc đẩy sự đổi mới và nội lực trong sản xuất, phân phối sản phẩm, dịch vụ văn hóa, thúc đẩy sự cố kết, tương tác cùng có lợi của hệ sinh thái văn hóa. Nhà nước quan tâm hơn nữa và hỗ trợ cho hệ thống dịch vụ văn hóa công cộng, phi lợi nhuận, những các loại hình văn hóa có tính sáng tạo và có giá trị nghệ thuật, giá trị xã hội cao.
Trong kỷ nguyên mới, văn hóa chính là động lực phát triển bền vững của đất nước. Các giải pháp tập trung vào bảo tồn, đổi mới, sáng tạo và hội nhập văn hóa sẽ giúp Việt Nam không chỉ giữ gìn được bản sắc dân tộc mà còn vươn mình ra thế giới. Những nỗ lực này sẽ góp phần xây dựng một xã hội văn minh, giàu bản sắc và đầy sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển của kỷ nguyên mới.