Thế tiến thoái lưỡng nan trong xử lý rác thải

Các bãi rác quá tải, bốc mùi hôi thối làm ảnh hưởng tới cộng động dân cư xung quanh không phải là hình ảnh quá xa lạ tại các đô thị lớn ở Việt Nam, thậm chí đã nhiều lần người dân địa phương tìm mọi cách cản trở việc tập kết rác nhằm phản đối tình trạng ô nhiễm trầm trọng tại các bãi rác. Tuy nhiên, dường như các cơ quan quản lý vẫn đang loay hoay chưa tìm được lời giải cho bài toán này.

Nguồn ngân sách phân bổ cho hoạt động xử lý rác thải cũng khá giới hạn. Ảnh: Thành Hoa

Gần 50% bãi chôn lấp rác đang quá tải

Lượng chất thải rắn (CTR) của Việt Nam luôn tăng ở mức hai con số trong nhiều năm trở lại đây. Mức gia tăng của giai đoạn 2011-2015 trung bình 12% mỗi năm và về xu hướng, mức độ phát sinh CTR sinh hoạt đô thị tiếp tục tăng trong thời gian tới. Theo thống kê, CTR sinh hoạt phát sinh ở các đô thị chiếm đến hơn 50% tổng lượng CTR sinh hoạt của cả nước mỗi năm. Đến năm 2015, tổng khối lượng CTR sinh hoạt phát sinh tại các đô thị khoảng 38.000 tấn/ngày. Riêng tại Hà Nội và TPHCM, khối lượng CTR sinh hoạt phát sinh hiện nay đã từ 6.400-6.700 tấn/ngày.

Xử lý rác thải hiện nay vẫn chủ yếu sử dụng phương pháp chôn lấp, chiếm khoảng 80-85% lượng rác thải thu gom. Trong khi đó, các phương pháp xử lý khác như đốt hoặc làm phân bón lại không khả thi do rác thải thường không được phân loại từ đầu nên lẫn nhiều tạp chất, không đủ điều kiện để đốt hay làm phân bón.

Hầu hết các bãi chôn lấp hiện nay đều chưa được phân loại tại nguồn, có thành phần hữu cơ cao, do đó chiếm nhiều diện tích chôn lấp và phát sinh lượng lớn nước rỉ rác. Theo khảo sát của Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), có gần 50% bãi chôn lấp rác đang trong tình trạng quá tải và sức chứa còn lại từ bốn năm trở xuống (chiếm 179/407 bãi rác khảo sát).

Tiến thoái lưỡng nan

Việc xử lý rác thải của Việt Nam đang ở trong thế tiến thoái lưỡng nan khi vừa phải cung cấp dịch vụ thu gom và xử lý rác thải với chi phí rẻ, vừa phải đảm bảo xử lý rác thải hiệu quả (đồng nghĩa với chi phí xử lý rác thải cao). Trong khi đó, nguồn ngân sách phân bổ cho hoạt động này cũng khá giới hạn.

Cụ thể, phí thu gom rác thải tại các đô thị ở mức 6.000 đồng/tháng cho các cá nhân và khoảng 130.000-500.000 đồng/tháng cho các hộ kinh doanh. Phần còn lại được hỗ trợ bằng ngân sách địa phương, trong đó Hà Nội và TPHCM chi khoảng 1.200-1.500 tỉ đồng mỗi năm cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn, chiếm khoảng 3,5% chi ngân sách.

Các công nghệ xử lý rác thải hiện nay như chôn lấp, đốt lấy điện năng hoặc làm phân bón có giá từ 17-21 đô la Mỹ/tấn, nhưng cũng không đảm bảo xử lý được triệt để rác thải. Các công nghệ khác đảm bảo vệ sinh hơn như đốt bằng plasma có giá khoảng 32 đô la Mỹ/tấn, cao hơn nhiều so với khả năng chi trả của ngân sách địa phương.

Trong các hình thức xử lý rác thải, bên cạnh hình thức rẻ nhất là chôn lấp thì hình thức đốt rác lấy điện năng hoặc làm phân bón cũng có thể được xem xét. Như đã chỉ ra ở trên, với việc rác không được phân loại tại nguồn thì các đô thị của Việt Nam chỉ còn hai sự lựa chọn, hoặc là chôn lấp, hoặc là sử dụng công nghệ đốt hiện đại và tốn kém. Do giới hạn về ngân sách, chôn lấp dường như là sự lựa chọn khả dĩ hiện nay, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến các hệ lụy về môi trường.

Để giải quyết được bài toán rác thải đô thị, có hai vấn đề mấu chốt cần được xử lý là việc phân loại được rác thải tại nguồn và tăng nguồn tài chính cho hoạt động xử lý rác thải. Tuy nhiên chúng ta vẫn chưa có phương án thấu đáo để giải quyết bài toán này.

Bài học kinh nghiệm từ Singapore

Là một quốc đảo với diện tích nhỏ, Singapore buộc phải xử lý triệt để vấn đề rác thải. Tại Singapore, người dân phải chịu toàn bộ chi phí xử lý rác thải, tuy nhiên một phần chi phí được hỗ trợ bởi tiền thu được từ quá trình tái chế rác. Điều này tạo ra hai hiệu ứng tích cực, một mặt người dân có động lực để phân loại rác ngay từ nguồn, mặt khác mức phí xử lý rác cao cũng tạo nguồn tài chính cho hoạt động xử lý rác thải.

Chính phủ Singapore tham gia trực tiếp vào quá trình xử lý rác thông qua việc xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng và vận hành một số nhà máy xử lý rác và giám sát việc vận hành của một số nhà máy được xây dựng bởi khu vực tư nhân.

Đối với giai đoạn thu gom rác thải, chính phủ không tham gia trực tiếp mà tổ chức đấu thầu cạnh tranh, theo đó doanh nghiệp thu gom rác thải với chi phí hợp lý nhất sẽ đảm nhiệm vai trò này. Các hợp đồng thu gom ký giữa chính phủ và doanh nghiệp có thời hạn tương đối dài (bảy năm) nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư máy móc, trang thiết bị.

Mở rộng sân chơi cho khu vực tư nhân

Thu gom rác được coi là một hàng hóa công với tính không loại trừ (tất cả mọi người đều được hưởng lợi); tính không cạnh tranh (không có sự cạnh tranh khi hưởng lợi từ hàng hóa, dịch vụ). Vì những lý do trên mà nhà nước phải chịu trách nhiệm đối với việc cung cấp dịch vụ thu gom rác thải, nhưng điều đó không có nghĩa là hàng hóa này phải được khu vực công sản xuất.

Sự tham gia của khu vực tư nhân trong quản lý thu gom rác là thực sự cần thiết và quan trọng nhằm nâng cao chất lượng và giảm giá thành thu gom và xử lý rác thải. Theo đó, nhà nước cần duy trì trách nhiệm, đóng vai trò đảm bảo dịch vụ được cung cấp và đáp ứng tiêu chuẩn về điều khoản pháp lý, hiệu quả, quan hệ khách hàng và bảo vệ môi trường.

Tại Việt Nam, quá trình thu gom, xử lý rác vẫn đang được vận hành chủ yếu bởi các đơn vị nhà nước. Vì vậy, gia tăng sự tham gia của người dân và khu vực tư nhân vào chu trình xử lý rác thải sẽ là định hướng đúng đắn nhằm giảm áp lực cho khu vực công, đồng thời tăng hiệu quả cho quá trình xử lý rác thải.

Minh Huệ - Duy Hoàng

Nguồn Saigon Times: https://www.thesaigontimes.vn/285180/the-tien-thoai-luong-nan-trong-xu-ly-rac-thai-.html