Nhiều điểm mới đáng chú ý trong Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi)
Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) có nhiều điểm mới quan trọng sẽ tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế, thủ tục, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi số trong hoạt động thi hành án dân sự, góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật, phục vụ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Ngày 5/12/2025, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Thi hành án dân sự số 106/2025/QH15, có hiệu lực từ ngày 1/7/2026. Luật đã thể chế hóa đầy đủ, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp, hoàn thiện và tăng cường hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật; đồng thời khắc phục những bất cập, hạn chế từ thực tiễn 17 năm thi hành Luật.
Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) gồm 5 Chương, 116 Điều. Những điểm mới của Luật tập trung vào 9 nhóm vấn đề lớn sau:
Luật Thi hành án dân sự năm 2025 đã thể chế hóa Kết luận số 162-KL/TW ngày 6/6/2025 của Bộ Chính trị về mô hình cơ quan thi hành án dân sự một cấp ở địa phương nhằm tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống thi hành án dân sự, bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả

Quốc hội thông qua Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi). (Ảnh: TL)
Luật quy định hệ thống thi hành án dân sự được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến địa phương, quy định mô hình cơ quan thi hành án dân sự một cấp, trong đó có các Phòng thi hành án dân sự khu vực. Đồng thời, để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự của các Phòng thi hành án dân sự khu vực, Luật đã quy định Trưởng phòng Phòng thi hành án dân sự khu vực là Chấp hành viên trưởng.
Chấp hành viên trưởng là chức danh tư pháp, thực hiện một số nhiệm vụ quyền hạn theo ủy quyền của Thủ trưởng của cơ quan thi hành án dân sự; hướng dẫn, chỉ đạo chuyên môn, nghiệp vụ tổ chức thi hành án đối với Chấp hành viên tại Phòng thi hành án dân sự khu vực. Việc bổ sung chức danh Chấp hành viên trưởng cũng nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong công tác phối hợp với các cơ quan tố tụng và cơ quan liên quan trên địa bàn.
Quy định về việc gửi lại yêu cầu thi hành án
Đây là một trong những giải pháp nhằm giảm án tồn, xử lý những vụ việc thi hành án chưa có điều kiện thi hành kéo dài nhiều năm mà Nhà nước vẫn phải bảo đảm nhân lực, vật lực để theo dõi, xác minh định kỳ, gây lãng phí ngân sách.
Quy định gửi lại yêu cầu thi hành án vẫn bảo đảm thực hiện đầy đủ trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, đồng thời, tạo điều kiện cho người dân có quyền yêu cầu Văn phòng thi hành án dân sự tổ chức thi hành án; bất kỳ giai đoạn nào sau khi được gửi lại tài liệu yêu cầu thi hành án, nếu phát hiện người phải thi hành án có điều kiện thi hành thì người yêu cầu đều có quyền yêu cầu thi hành án trở lại, thời gian gửi lại yêu cầu thi hành án không bị tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.
Quy định về quản lý kho vật chứng
Luật đã sửa đổi quy định về trách nhiệm bảo quản vật chứng theo hướng: vật chứng tiếp tục được lưu giữ tại kho của cơ quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cho đến khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Quy định này nhằm hạn chế việc phải di chuyển vật chứng qua các kho khác nhau, gây tốn kém chi phí, nhân lực và nguy cơ mất mát, hư hỏng vật chứng; đồng thời, giúp bảo đảm an toàn vật chứng, nhất là đối với các loại vật chứng đặc thù như ma túy, vũ khí...; phù hợp với thực tế cơ quan thi hành án dân sự không có lực lượng chuyên nghiệp để bảo vệ vật chứng và Nhà nước không phải đầu tư ngân sách cho cả hai hệ thống kho như hiện nay.
Quy định về thời hạn kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân với những vụ việc thi hành án đã kết thúc
Nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, bảo đảm tính ổn định của các quan hệ xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, đồng thời, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong thi hành án dân sự, Luật đã bổ sung quy định về thời hạn kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân đối với các vụ việc thi hành án đã kết thúc là 1 năm kể từ ngày Viện Kiểm sát được thông báo về kết thúc việc thi hành án.
Bổ sung quy định xử lý khoản tiền đã tạm thu trong nhiều năm nhưng chưa có phương án giải quyết
Thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về tránh lãng phí, tiêu cực, khơi thông các nguồn lực xã hội, Luật bổ sung quy định về cơ chế xử lý đối với khoản tiền đã tạm thu đang bị tồn đọng nhiều năm qua. Theo đó, sau 5 năm tạm thu mà không nhận được bản án, quyết định của Tòa án thì khoản tiền trên sẽ được sung công, sau khi sung công, trường hợp nhận được bản án, quyết định của Tòa án thì cơ quan thi hành án dân sự thực hiện thoái thu theo quy định của pháp luật để thi hành theo nội dung bản án, quyết định.
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp của chính quyền địa phương; trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức trong hoạt động thi hành án dân sự theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp
Tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của chính quyền địa phương trong công tác thi hành án dân sự, Luật quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác thi hành án dân sự trên địa bàn, đặc biệt là Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân các cấp, phù hợp với mô hình sau sắp xếp.

Một vụ việc thi hành án dân sự. (Ảnh: TH)
Đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí tổ chức thi hành án
Thực hiện yêu cầu về “đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí” theo Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, từng thời hạn, thủ tục trong quy trình tổ chức thi hành án đã được rà soát kỹ lưỡng để sửa đổi theo hướng đơn giản hóa, rút ngắn thời gian, giảm chi phí nhưng vẫn phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Một số nội dung nổi bật như: Quy định thông báo thi hành án trên môi trường số bên cạnh các phương thức khác nhằm giải quyết khó khăn, giảm chi phí, đặc biệt là trong các vụ đại án; quy định cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án đối với khoản bồi thường trong trường hợp cơ quan thi hành án dân sự đã thu được tiền ở giai đoạn tố tụng mà không cần chờ đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án; sửa đổi quy định về thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo hướng nhanh gọn, phù hợp với tính chất phải kịp thời của loại quyết định này...
Tiếp tục thực hiện xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự
Tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hóa một số hoạt động T thi hành án dân sự đã được Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra, đặc biệt là Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương, Luật đã bổ sung các quy định về Thừa hành viên và Văn phòng thi hành án dân sự với những nội dung chính như:
- Đổi tên Thừa phát lại thành Thừa hành viên và đổi tên Văn phòng Thừa phát lại thành Văn phòng thi hành án dân sự để bảo đảm tính phổ thông, dễ hiểu hơn, phù hợp với phạm vi, tính chất hoạt động thi hành án dân sự của tổ chức này.
- Thừa phát lại tiếp tục được thực hiện 4 thủ tục thi hành án theo Nghị định số 08/2020/NĐ-CP. Bên cạnh đó, so với Nghị định số 08/2020/NĐ-CP, Luật đã mở rộng thẩm quyền của Thừa phát lại về 4 thủ tục sau: (i) Ra quyết định thi hành án; (ii) đề nghị Tòa án xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để thi hành án; (iii) yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu; (iv) yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp tài sản thi hành án.
Đồng thời, Thừa phát lại được thực hiện thêm một thủ tục: “Thừa hành viên được đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ; tạm ngừng giao dịch, tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản”.
Ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số mạnh mẽ trong hoạt động thi hành án dân sự
Thể chế hóa Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị, Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) đã bổ sung nhiều quy định ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động thi hành án dân sự như: Điều 5 ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động thi hành án dân sự, Điều 9 về điều kiện bảo đảm cho công tác thi hành án dân sự, Điều 35 về thông báo qua phương tiện điện tử, Điều 37 về ứng dụng công nghệ thông tin trong xác minh, Điều 54 về thanh toán qua chuyển khoản.... Đây sẽ là những quy định có tính bước ngoặt, tạo thuận lợi cho cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án. Để tạo cơ sở pháp lý kịp thời triển khai trên thực tế, một số quy định về ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Luật sẽ có hiệu lực sớm.











