Mỹ có đủ sức phòng thủ trước trận địa tên lửa Trung Quốc?

Trung Quốc đang tăng tốc mở rộng các lữ đoàn tên lửa, bãi phóng và hệ thống hậu cần dọc theo vùng duyên hải phía đông.

Thế trận tên lửa mới này được tổ chức theo hướng đa tầng, phối hợp giữa khả năng cơ động, khả năng phóng tập trung và hệ thống chỉ huy được huấn luyện cho các đợt tập kích phức hợp với quy mô lớn. Mục tiêu chính là làm gia tăng rủi ro cho các căn cứ quân sự và lực lượng Mỹ tại Tây Thái Bình Dương, đặc biệt là tại Nhật Bản, quần đảo Ryukyu và đảo Guam.

Nền tảng cho chiến thuật phủ đầu

Trung Quốc đang duy trì một lực lượng tên lửa đạn đạo tầm ngắn và tầm trung quy mô lớn. Các dòng DF-11 và DF-15, tuy là thế hệ cũ, vẫn được đánh giá cao nhờ số lượng và khả năng gây áp lực diện rộng. DF-16, sử dụng nhiên liệu rắn, cho phép phóng nhanh với độ chính xác cao, được thiết kế để tấn công các mục tiêu kiên cố như hầm chứa, sở chỉ huy và hệ thống phòng không.

Nổi bật hơn cả là DF-17, tên lửa đạn đạo tích hợp đầu đạn lướt siêu vượt âm, có khả năng bay ở độ cao thấp, cơ động linh hoạt nhằm vượt qua các hệ thống đánh chặn tiên tiến như Patriot PAC-3 MSE, THAAD hoặc Aegis. Những hệ thống này rút ngắn thời gian cảnh báo, tạo ra áp lực lớn đối với năng lực phản ứng và phục hồi của bất kỳ đối thủ nào trong khu vực.

Tên sửa siêu vượt âm DF-17 của Trung Quốc - Ảnh: PLA

Tên sửa siêu vượt âm DF-17 của Trung Quốc - Ảnh: PLA

Các loại tên lửa chống hạm tầm xa như DF-21D và DF-26 giúp Trung Quốc mở rộng đáng kể không gian tác chiến. DF-21D, với tầm bắn từ 1.500 đến 2.000km, được thiết kế để tấn công các mục tiêu di động trên biển, bao gồm nhóm tác chiến tàu sân bay. Trong khi đó, DF-26 có thể vươn xa tới 4.000km, cho phép tấn công các mục tiêu cố định hoặc đội hình tàu chiến ở vùng biển sâu như biển Philippines hay căn cứ Andersen trên đảo Guam.

Trung Quốc cũng đang củng cố năng lực tấn công chính xác từ đất liền thông qua mạng lưới cảm biến hiện đại gồm vệ tinh, radar tầm xa và máy bay tuần thám biển. Kết hợp với đầu dò đa dạng và chiến thuật bắn hàng loạt, các hệ thống này buộc các lực lượng hải quân Mỹ phải tác chiến ở rìa giới hạn hiệu quả.

Tên lửa DF-26 của Trung Quốc - Ảnh: PLA

Tên lửa DF-26 của Trung Quốc - Ảnh: PLA

Hệ thống tên lửa hành trình như CJ-10 (phóng từ mặt đất) và CJ-20 (phóng từ máy bay ném bom H-6K) được thiết kế để thực hiện các đòn tấn công chính xác vào hạ tầng quân sự, sử dụng quỹ đạo bay thấp và công nghệ dò địa hình nhằm tránh bị phát hiện và đánh chặn. Các biến thể như YJ-12 và YJ-18, được triển khai từ tàu chiến, máy bay và tàu ngầm, có thể tăng tốc đột ngột ở giai đoạn cuối, vượt qua các lớp phòng thủ trên biển.

Tên lửa YJ-12 trong cuộc diễu hành ở Bắc Kinh năm 2019 - Ảnh: Quân đội Trung Quốc

Tên lửa YJ-12 trong cuộc diễu hành ở Bắc Kinh năm 2019 - Ảnh: Quân đội Trung Quốc

Khi được triển khai đồng thời với đòn đánh từ tên lửa đạn đạo, các hệ thống này giúp làm suy yếu hệ thống phòng thủ đa lớp và tiêu hao nhanh chóng kho tên lửa đánh chặn của đối phương. Việc kết hợp cùng tác chiến điện tử, chiến tranh mạng và máy bay không người lái (UAV) tự sát làm tăng thêm độ phức tạp cho toàn bộ chiến trường.

Nguy cơ đối với chuỗi căn cứ chiến lược của Mỹ

Điểm tựa trọng yếu của Mỹ trong khu vực chính là khả năng duy trì sức mạnh liên tục bên trong vùng bị tranh chấp. Guam giữ vai trò trung tâm cho hoạt động của máy bay ném bom, máy bay tiếp dầu, tàu ngầm và hệ thống hậu cần hải vận. Tuy nhiên, đây cũng là mục tiêu dễ bị tổn thương trước các loại tên lửa tầm xa như DF-26.

Tại Nhật Bản, chiến lược "triển khai tác chiến linh hoạt" đang được áp dụng nhằm phân tán lực lượng không quân Mỹ ra nhiều căn cứ dã chiến. Dù vậy, điều này đặt ra yêu cầu khắt khe về khả năng sửa chữa nhanh đường băng, ngụy trang hiệu quả và triển khai hệ thống phòng thủ tại chỗ chống lại UAV và tên lửa hành trình.

Một tên lửa đánh chặn thuộc hệ thống phòng thủ tầm cao giai đoạn cuối (THAAD) của Mỹ trong một cuộc thử nghiệm đánh chặn - Ảnh: Reuters

Một tên lửa đánh chặn thuộc hệ thống phòng thủ tầm cao giai đoạn cuối (THAAD) của Mỹ trong một cuộc thử nghiệm đánh chặn - Ảnh: Reuters

Trên biển, nhóm tàu sân bay Mỹ phải phụ thuộc vào các tên lửa phòng không tầm xa như SM-6, tên lửa không đối không, mồi nhử điện tử và khả năng phối hợp tác chiến thời gian thực để tăng tỷ lệ đánh chặn các đợt tấn công phức hợp.

Hệ thống tên lửa mà Trung Quốc đang xây dựng không chỉ là một lực lượng độc lập, mà là một phần trong cấu trúc tác chiến “chống tiếp cận – phong tỏa khu vực” (A2/AD). Chuỗi hệ thống này tích hợp cảm biến không gian, radar cảnh giới ngoài đường chân trời và trung tâm chỉ huy được số hóa, nhằm tạo ra một vùng đệm chiến lược khiến đối phương gặp khó khăn trong việc tiếp cận.

Chiến lược của Trung Quốc là gây tổn thất lớn ngay từ đầu, buộc các đối thủ phải suy xét lại khả năng can thiệp quân sự. Ngược lại, Mỹ đang theo đuổi học thuyết “răn đe bằng từ chối”, tức chứng minh rằng mọi đòn tấn công đều có thể bị đánh chặn hoặc giảm thiểu hiệu quả, các căn cứ có thể nhanh chóng phục hồi, và lực lượng hải - không quân có thể duy trì hiện diện trong môi trường bị đe dọa cao.

Điều này đòi hỏi đầu tư mạnh vào hạ tầng phòng thủ đa tầng, từ hệ thống đánh chặn SM-3, PAC-3 MSE đến năng lực hậu cần phân tán và khẩn cấp. Đồng thời, việc triển khai nhanh các hệ thống phòng không di động, giải pháp chống UAV và radar giám sát cơ động tại các căn cứ tiền phương sẽ đóng vai trò quyết định trong việc giữ vững ưu thế chiến lược.

Hoàng Vũ

Nguồn Một Thế Giới: https://1thegioi.vn/my-co-du-suc-phong-thu-truoc-tran-dia-ten-lua-trung-quoc-238310.html