Kiến tạo hệ sinh thái sở hữu trí tuệ qua hợp tác chiến lược với WIPO
Sở hữu trí tuệ ngày càng trở thành tài sản chiến lược của các quốc gia. Sau gần nửa thế kỷ Việt Nam hợp tác cùng Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới - WIPO (từ 1976 đến nay) đã giúp định hình một hệ sinh thái sở hữu trí tuệ ngày càng bài bản.

Các đại biểu của Việt Nam tham dự Đại hội đồng WIPO năm 2023.
Việt Nam gia nhập WIPO từ năm 1976. Một thập kỷ sau, chuyến thăm của Tổng Giám đốc WIPO Árpád Bogsch (1986) đã mở ra giai đoạn hợp tác toàn diện. Từ đó, nhiều thế hệ lãnh đạo WIPO đã tới Việt Nam, trong đó có ông Francis Gurry (2010, 2017) và sắp tới là Tổng Giám đốc Daren Tang (2025).
Các chuyến công tác không chỉ mang ý nghĩa ngoại giao mà còn góp phần trực tiếp định hình hệ thống sở hữu trí tuệ của Việt Nam, gắn chính sách quốc gia với xu hướng toàn cầu.
Trong mỗi lần làm việc, Bộ Khoa học và Công nghệ đều khẳng định quyết tâm đưa Việt Nam trở thành quốc gia tiên phong trong ASEAN về đổi mới sáng tạo. Cục Sở hữu trí tuệ đã cụ thể hóa cam kết bằng những dự án thiết thực: số hóa dữ liệu, đào tạo nhân lực, xây dựng mạng lưới các Trung tâm Hỗ trợ Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (TISC).
Một số thành quả hợp tác nổi bật, đem lại nhiều kết quả rõ nét có thể kể đến là lần đầu tiên, lĩnh vực sở hữu trí tuệ được xác định là một nội dung trọng yếu trong Chiến lược phát triển quốc gia, thông qua việc ban hành Chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030; Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) 2025 cho thấy, Việt Nam xếp hạng 44/139 nền kinh tế, đứng thứ 2/37 trong nhóm quốc gia thu nhập trung bình thấp.
Trong 15 năm liền, Việt Nam luôn có kết quả đổi mới sáng tạo cao hơn so với mức độ phát triển, cho thấy hiệu quả trong việc chuyển các nguồn lực đầu vào thành kết quả đầu ra đổi mới sáng tạo. Việt Nam là một trong 3 quốc gia (Trung Quốc, Việt Nam, Ethiopia) có tốc độ tăng trưởng năng suất lao động nhanh nhất giai đoạn 2014-2024.
Từ năm 2022, Việt Nam thí điểm bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp tỉnh (PII), và đến năm 2023 chính thức công bố toàn quốc. Đây là mô hình đo lường đổi mới sáng tạo địa phương đầu tiên trong khu vực, được WIPO đánh giá cao và khuyến nghị nhân rộng sang các quốc gia khác. PII giúp phản ánh bức tranh năng lực đổi mới của từng tỉnh/thành, tạo cơ sở để địa phương hoạch định chính sách sát thực tiễn hơn; Chuyển đổi số quản lý: Cục Sở hữu trí tuệ vận hành hệ thống IPAS, số hóa hơn 600.000 hồ sơ sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp; phát triển hơn 50 trung tâm TISC;
Việt Nam đã tham gia 15 điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ, trong đó tiêu biểu là: Hiệp ước Hợp tác sáng chế (1993), Nghị định thư Madrid (2006), Thỏa ước La Hay (2019) giúp doanh nghiệp mở rộng bảo hộ sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp ra thị trường toàn cầu với thủ tục đơn giản, nhanh chóng….
Những thành quả này cho thấy rõ vai trò “kiến tạo” của Bộ Khoa học và Công nghệ trong quá trình đưa sở hữu trí tuệ trở thành công cụ thúc đẩy tăng trưởng.
Việt Nam không chỉ dừng ở vai trò thụ hưởng hỗ trợ từ WIPO mà còn ngày càng chủ động tham gia tích cực vào các ủy ban chuyên môn của WIPO. Việt Nam đã từng giữ trọng trách tại WIPO: Chủ tịch Ủy ban Điều phối (2014-2015), Chủ tịch Đại hội đồng (2018-2019). Gần đây, Việt Nam tham gia hội nghị ngoại giao thông qua văn kiện quốc tế về nguồn gen, tri thức truyền thống và hiệp ước Luật kiểu dáng công nghiệp.
Để có được vị thế đó, Việt Nam đã dựa trên hai trụ cột căn bản là thể chế và nguồn nhân lực. Bộ Khoa học và Công nghệ giữ vai trò tham mưu chiến lược, đồng bộ hóa luật pháp quốc gia với chuẩn mực quốc tế. Chiến lược Sở hữu trí tuệ đến 2030 đặt sở hữu trí tuệ thành cấu phần của chiến lược phát triển quốc gia; các hệ thống PCT, Madrid, La Hay giúp doanh nghiệp giảm chi phí và thủ tục khi mở rộng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ra toàn cầu. Cục Sở hữu trí tuệ triển khai IPAS, nâng cao chất lượng thẩm định và quản trị đơn-tạo sự minh bạch và niềm tin.
Về nguồn nhân lực, WIPO đã hỗ trợ hàng trăm lượt cán bộ Việt Nam qua học bổng, tập huấn. Cục Sở hữu trí tuệ phối hợp mở rộng mạng lưới TISC, lan tỏa kỹ năng sở hữu trí tuệ tới viện, trường, doanh nghiệp. Tới đây, việc phát triển đội ngũ chuyên gia về thẩm định, định giá và thương mại hóa tài sản trí tuệ sẽ là chìa khóa để biến tri thức thành giá trị kinh tế.
Có thể thấy, từ chuyến thăm đầu tiên của lãnh đạo WIPO năm 1986 đến nay, hợp tác Việt Nam-WIPO đã trở thành mối quan hệ đối tác chiến lược, toàn diện. Với sự quan tâm, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự dẫn dắt của Bộ Khoa học và Công nghệ và sự triển khai của Cục Sở hữu trí tuệ, Việt Nam không chỉ củng cố vị thế trên bản đồ đổi mới sáng tạo toàn cầu, mà còn xây dựng hệ sinh thái sở hữu trí tuệ hiện đại, gắn liền với phát triển kinh tế-xã hội.