Đừng vội gắn mác 'vô cảm' cho một đứa trẻ

Vụ việc 3 em nhỏ đuối nước, trong đó một em đứng trên bờ vừa cười vừa buông lời trêu chọc, khiến dư luận bàng hoàng và phẫn nộ. Tuy nhiên, theo Thạc sĩ tâm lý học Nguyễn Thị Phượng, đây chưa hẳn là biểu hiện vô cảm mà có thể xuất phát từ cơ chế tự vệ khi trẻ bị sốc tâm lý.

Thưa chị, khi chứng kiến vụ việc đau lòng vừa qua, nhiều người cảm thấy phẫn nộ trước thái độ "cười cợt" và những lời nói tưởng như “vô cảm” của em bé đứng trên bờ. Ở góc nhìn của một chuyên gia tâm lý học chị nhìn nhận như thế nào về việc này.

Thạc sĩ Phượng Nguyễn:

Dưới góc nhìn tâm lý học, hành vi của em bé đứng trên bờ với hàng loạt phản ứng đi kèm như là “cười cợt”, “nói nhảm nhí”, “kêu cứu hời hợt”,… chưa “nhất thiết” phản ánh sự “vô cảm” hay “ác ý". Khi trẻ chứng kiến một tình huống khẩn cấp, đặc biệt là tình huống căng thẳng tột độ, não bộ có thể rơi vào trạng thái sốc tâm lý và kích hoạt các cơ chế tự vệ như phủ nhận (giả vờ như không có chuyện gì) hoặc phân ly cảm xúc (tách mình ra khỏi cảm giác thật). Đôi khi, cười, hát hay đùa giỡn lại chính là phản ứng vô thức để giảm bớt căng thẳng và sợ hãi. Với trẻ em, vốn chưa hoàn thiện kỹ năng nhận diện tình huống nguy hiểm, phản ứng “khác thường” này càng dễ xảy ra".

Hiện tượng này được gọi là inappropriate affect (biểu cảm không phù hợp). Não bộ khi bị sốc có thể gửi tín hiệu “lệch” đến cơ mặt và giọng nói, tạo ra biểu cảm, hành vi tưởng như vô cảm nhưng thực ra là một dạng xả van căng thẳng.

Chị có thể lý giải rõ hơn về cơ chế tâm lý dẫn đến hành động em bé đứng trên bờ có những phản ứng như vậy?

Thạc sĩ Phượng Nguyễn:

Đầu tiên, chúng ta cần hiểu về cơ chế phản ứng và hoạt động của thần kinh khi trẻ đối diện với tình huống/sự kiện gây sốc.

Vùng hạch hạnh nhân trên não bộ (Amygdala) là trung tâm xử lý cảm xúc sợ hãi, khi bị kích hoạt quá mức sẽ báo động cho hệ thần kinh giao cảm và sẽ có phản ứng chiến đấu, bỏ chạy hoặc tê liệt/đóng băng (fight-flight-freeze).

 Thạc sĩ Tâm lý học Nguyễn Thị Phượng

Thạc sĩ Tâm lý học Nguyễn Thị Phượng

Ở trẻ, đặc biệt là trước tuổi vị thành niên, vỏ não trước trán (prefrontal cortex) – vùng điều tiết hành vi, đánh giá nguy hiểm và điều chỉnh cảm xúc – chưa phát triển hoàn thiện. Điều này khiến trẻ khó chuyển hóa cảm xúc sợ hãi thành hành vi ứng phó phù hợp (ví dụ: chạy đi gọi người lớn, tìm dụng cụ cứu…).

Khi xung đột giữa cảm xúc mạnh và khả năng xử lý chưa chín muồi, não bộ có thể chọn cơ chế phân ly (dissociation), tách bản thân ra khỏi cảm xúc thật, dẫn tới hành vi cười, hát, trêu đùa như thể “chuyện không liên quan đến mình”.

Thứ 2, cơ chế tự vệ tâm lý (defense mechanisms) liên quan xảy ra trong tình huống này bao gồm có:

+ Phủ nhận (Denial): Trẻ giả vờ như không có gì xảy ra để giảm áp lực tinh thần. Đây là một cách bảo vệ bản thân khỏi nỗi sợ “quá lớn để đối diện”.

+ Hài hước như cơ chế đối phó (Humor as coping): Một số người (kể cả trẻ em) khi căng thẳng sẽ dùng tiếng cười hoặc lời nói đùa để “biến” tình huống nghiêm trọng thành nhẹ nhàng hơn trong nhận thức.

+ Phân ly cảm xúc (Emotional detachment): Trẻ tạm thời “đóng băng” cảm xúc để không bị choáng ngợp, dẫn tới hành vi biểu cảm không khớp với hoàn cảnh.

Thứ 3 là có thể do tác động ảnh hưởng của yếu tố xã hội và môi trường

Nếu môi trường sống thường xuyên chứng kiến bạo lực, tai nạn, hoặc các tình huống “nguy hiểm trở thành bình thường”, trẻ có thể hình thành ngưỡng chịu sốc cao và giảm độ nhạy cảm trước sự cố.

Trong thời đại mạng xã hội, trẻ dễ bị trộn lẫn ranh giới giữa thực tế và nội dung giải trí. Một số em từng xem nhiều các nội dung video “nguy hiểm” nhưng kết thúc an toàn có thể mặc định ngoài đời cũng vậy, dẫn tới phản ứng không khẩn trương.

Thứ 4 là yếu tố phát triển nhận thức và kỹ năng đánh giá nguy hiểm

Trẻ em không phải lúc nào cũng nhận diện được mức độ nghiêm trọng của tình huống, nhất là khi không được chú chú trọng giáo dục và trang bị kỹ năng sống tốt. Với người lớn, thấy người chới với dưới nước là lập tức hiểu và đánh giá được nguy cơ là đang bị “nguy hiểm đến tính mạng”. Nhưng với một số trẻ, đặc biệt là trẻ ít được giáo dục kỹ năng sinh tồn, có thể chưa đánh giá được chính xác và nhận thức đúng đắn về mức độ nguy hiểm của tình huống xảy ra. Não bộ trẻ vẫn đang học cách liên kết nguyên nhân – hậu quả trong bối cảnh xã hội, nên đôi khi không kích hoạt phản ứng “giúp đỡ” kịp thời.

Một số nghiên cứu về “khủng hoảng tâm lý” cũng chỉ ra rằng biểu cảm không phù hợp không đồng nghĩa với ý định xấu.

Sau khi đoạn clip lan truyền, em nhỏ đứng trên bờ bị cộng đồng mạng chỉ trích gay gắt, dùng những lời lẽ xúc phạm nặng nề. Dưới góc độ một chuyên gia tâm lý, chị nhìn nhận vấn đề này như thế nào?

Thạc sĩ Phượng Nguyễn:

Khi người lớn nhìn thấy cảnh “cười – hát” trong lúc người khác gặp nạn thường lập tức gắn nhãn “vô cảm”, “ác ý” hay “thờ ơ”. Tôi cho rằng, chúng ta cũng nên có cái nhìn thấu đáo, kỹ lưỡng để tránh gây ra những tổn thương về mặt tâm lý cho em nhỏ đó. Bản thân em ấy, khi phải chứng kiến 2 bạn cùng chơi đuối nước cũng là một sự kiện có thể gây ra “khủng hoảng tâm lý”. Đồng thời, em bé lại phải đối diện với sự phán xét, chỉ trích của cộng đồng mạng, những người xung quanh nữa thì đây là một nguy cơ gây tổn thương tâm lý thứ cấp nghiêm trọng. Khi bị tấn công, xúc phạm trên mạng, một đứa trẻ chưa kịp hiểu rõ bản chất sự việc có thể rơi vào trạng thái lo âu, hoảng loạn, tự trách hoặc thu mình. Người lớn cần hiểu rằng, trẻ chưa đủ khả năng xử lý thông tin và cảm xúc như người trưởng thành. Việc chỉ trích, mắng mỏ gay gắt không giúp ích gì, mà chỉ khiến em nhỏ đó rơi vào tình trạng “khủng hoảng tâm lý” nếu không vượt qua được sẽ có thể bị sang chấn tâm lý về sau.

Nhiều ý kiến cho rằng những hành vi cợt nhả ấy phản ánh “sự vô cảm” của trẻ em ngày nay, là lỗi của cha mẹ dạy dỗ “không đến nơi đến chốn”, “cháu ở nhà ngoan lắm”. Chị nghĩ sao về quan điểm trên?

Thạc sĩ Phượng Nguyễn:

Thiết nghĩ, chúng ta cũng cần thận trọng với việc phán xét, đổ lỗi cho cha mẹ của em nhỏ đó. Thông qua một hành vi sai lệch trong tình huống bất thường không thể phản ánh toàn bộ nhân cách và quá trình nuôi dạy và giáo dục con của họ. Nhiều khi, ở nhà trẻ vẫn ngoan, biết quan tâm, nhưng trong tình huống khẩn cấp, phản ứng lại không như mong đợi do chưa được rèn luyện kỹ năng hoặc do sốc tâm lý (điều này tôi đã có giải thích rõ ở những câu hỏi trên rồi). Chúng ta cũng có con hoặc sẽ có con, và không phải đứa trẻ nào cũng hoàn hảo và không bao giờ mắc sai lầm, hoặc có kỹ năng để xử lý mọi tình huống tốt ngay được. Quá trình giáo dục con cái là một hành trình rất dài và cũng không hề dễ dàng tí nào. Là người lớn, chúng ta cũng cần có sự bao dung trước con trẻ để cho trẻ cơ hội trưởng thành từ những “sai lầm” và “thiếu sót” của bản thân. Tôi nghĩ rằng bố mẹ của em nhỏ chứng kiến 2 bạn đuối nước tử vong, cũng rất sốc, bàng hoàng và không tránh suy nghĩ nhiều về sự việc đã xảy ra, nếu thêm nhiều “áp lực” nữa đến từ dư luận cũng khiến họ có thể bị khủng hoảng tinh thần và ảnh hưởng đến bầu không khí tâm lý chung của gia đình họ, làm tất cả mọi người luôn nặng nề, mệt mỏi.

Với em nhỏ có thể bị ảnh hưởng tâm lý sau khi chứng kiến sự việc (dù là nạn nhân hay người đứng nhìn), cần có sự can thiệp, hỗ trợ như thế nào để tránh tổn thương lâu dài, thưa chị?

Thạc sĩ Phượng Nguyễn:

Cùng lúc em nhỏ có thể gặp “khủng hoảng tâm lý” do chứng kiến sự việc xảy ra, đồng thời bị áp lực dư luận đến từ những người xung quanh bởi những câu nói đôi khi là “vô tình” chưa nói đến là “hữu ý”, hoặc đôi khi chỉ là qua những ánh mắt nhìn chú ý đến, những lời xì xào, bàn tán… Chu kỳ của “khủng hoảng tâm lý” thường kéo dài khoảng 4 - 6 tuần, nếu như không được can thiệp, hỗ trợ rất dễ có thể dẫn đến bị sang chấn/ chấn thương tâm lý cùng những ký ức ám ảnh đi theo em nhỏ suốt cuộc đời. Sau đây là một vài gợi ý cơ bản để hỗ trợ tâm lý ban đầu cho trẻ sau khi chứng kiến sự việc:

- Lắng nghe và cho trẻ chia sẻ cảm xúc, suy nghĩ về những gì đã xảy ra.

- Giải thích sự việc bằng ngôn ngữ phù hợp độ tuổi, giúp trẻ hiểu và không tự trách quá mức bản thân.

- Theo dõi trẻ xem có có dấu hiệu như mất ngủ, hay giật mình, gặp ác mộng, hoảng sợ vô cứ, rất sợ nước, thu mình… Nếu có, cần gặp chuyên gia tâm lý để can thiệp kịp thời.

- Hỗ trợ bằng các hoạt động tích cực: thể thao, nghệ thuật, trị liệu chơi… để giải tỏa cảm xúc tiêu cực.

Là 1 chuyên gia tâm lý, chị sẽ gửi lời khuyên nào đến các bậc phụ huynh và nhà trường sau vụ việc lần này để trang bị các kỹ năng sống cho trẻ?

Thạc sĩ Phượng Nguyễn:

Thông qua vụ việc này, chúng ta lại càng thấy việc trang bị, giáo dục kỹ năng sống đối với trẻ em, học sinh là rất cần thiết. Dưới đây là một số kỹ năng cha mẹ, nhà trường cần chú ý giáo dục và trang bị cho trẻ như sau:

- Giáo dục kỹ năng phòng tránh và ứng phó khi gặp sự cố:

Biết nhận diện và đánh giá tình huống nguy hiểm
Biết tìm kiếm sự giúp đỡ của người lớn, không tự lao xuống, xả thân cứu người một mình nếu như nếu không biết bơi, hoặc không có thêm người khác hỗ trợ.

- Thực hành diễn tập các tình huống ứng phó khẩn cấp thường xuyên để trẻ hình thành phản xạ đúng khi gặp sự cố.

- Giáo dục cảm xúc: Giúp trẻ biết cách bày tỏ cảm xúc phù hợp với hoàn cảnh, tình huống như là: thể hiện rõ sự lo lắng, sợ hãi,.. thay vì để những phản ứng rất bản năng che giấu cảm xúc gây ra hiểu nhầm về phản ứng hành vi không phù hợp.

Trân trọng cảm ơn chị!

Nguồn SVVN: https://svvn.tienphong.vn/dung-voi-gan-mac-vo-cam-cho-mot-dua-tre-post1768429.tpo