Bài 2: Triển khai đồng bộ, toàn diện các giải pháp

Trong bối cảnh Việt Nam đặt mục tiêu làm chủ công nghệ vũ trụ và viễn thám nhằm phục vụ hiệu quả công tác quản lý tài nguyên, ứng phó thiên tai, giám sát môi trường và bảo đảm quốc phòng-an ninh, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, chuyên gia chất lượng cao đã trở thành yêu cầu cấp thiết.

Các cán bộ của Trung tâm Vũ Trụ Việt Nam tham gia chế tạo vệ tinh. (Ảnh: VNSC)

Các cán bộ của Trung tâm Vũ Trụ Việt Nam tham gia chế tạo vệ tinh. (Ảnh: VNSC)

Để tháo gỡ những điểm nghẽn, cần triển khai đồng bộ một hệ thống giải pháp toàn diện.

Đổi mới đào tạo

Về đào tạo, điều cấp thiết hiện nay là đổi mới nội dung theo hướng tích hợp liên ngành. Các trường đại học cần phát triển các ngành học tích hợp giữa viễn thám, hệ thống thông tin địa lý, khoa học dữ liệu, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và công nghệ thông tin. Nội dung đào tạo cần bám sát các xu hướng công nghệ mới, đồng thời tăng cường thực hành, tiếp cận dữ liệu thực tế và đầu tư các phòng thí nghiệm chuyên ngành hiện đại.

Việc học tập không chỉ giới hạn ở giảng đường mà phải gắn với nghiên cứu, phát triển sản phẩm và giải quyết các bài toán thực tiễn của xã hội. Song song với đào tạo chính quy, các chương trình đào tạo ngắn hạn, trực tuyến và đào tạo lại cho đội ngũ cán bộ hiện hữu, đặc biệt là những người có tuổi đời trung bình cao cần được đẩy mạnh để cập nhật nhanh công nghệ mới.

Một thí dụ tiêu biểu cho mô hình đào tạo hiệu quả là Trường đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội, đơn vị thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, nơi 100% sinh viên ngành vũ trụ và ứng dụng được tham gia đề tài nghiên cứu, thực tập tốt nghiệp và thực hiện các hợp phần của dự án lớn như mô hình vệ tinh nano, xử lý ảnh UAV, mô phỏng quỹ đạo bay, phát triển hệ thống cảm biến từ không gian. Nhiều sinh viên đã được cấp kinh phí nghiên cứu cho các đề tài có tính ứng dụng cao như chế tạo xe tự hành trên sao Hỏa hay xây dựng hệ thống cảnh báo rò rỉ xăng.

 Các kỹ sư của Trung tâm Vũ trụ Việt Nam (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) chế tạo vệ tinh. (Ảnh: VNSC)

Các kỹ sư của Trung tâm Vũ trụ Việt Nam (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) chế tạo vệ tinh. (Ảnh: VNSC)

Đây là mô hình đào tạo hiện đại, gắn liền với hợp tác quốc tế, trong đó chương trình học được phối hợp thiết kế và giảng dạy với các chuyên gia đến từ các cơ sở nghiên cứu vũ trụ hàng đầu của Pháp như: Đài thiên văn Paris, Đại học Paris Cite, Đại học Pari-Est Creteil, Trung tâm nghiên cứu Vũ trụ Quốc gia Pháp (CNES), với ưu tiên đưa sinh viên đi thực tập tại nước ngoài.

Theo Tiến sĩ Tống Sĩ Sơn, Phó Trưởng Khoa Vũ trụ và Ứng dụng, Trường đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội, cần ưu tiên đưa sinh viên đi thực tập ở nước ngoài, sau đó là cơ quan nghiên cứu và doanh nghiệp trong nước. “Là một giảng viên và nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này, tôi nhận thức rất rõ rằng công việc của chúng tôi không chỉ dừng lại ở trên lớp học, phòng thí nghiệm hay các đài quan sát. Trách nhiệm lớn hơn là truyền cảm hứng, năng lượng tích cực và yêu thích khoa học vũ trụ cho thế hệ trẻ để gánh vác sứ mệnh phát triển khoa học công nghệ nước nhà trong tương lai”, Tiến sĩ Sơn chia sẻ.

Trước hết, cần đưa phát triển nhân lực viễn thám và công nghệ vũ trụ trở thành một nội dung trọng tâm trong Chiến lược không gian quốc gia và các chương trình lớn về chuyển đổi số, kinh tế tuần hoàn, quản lý tài nguyên và phát triển kinh tế xanh. Chiến lược này không chỉ nêu mục tiêu định hướng mà cần xác lập các chỉ tiêu định lượng cụ thể theo từng giai đoạn, từ đào tạo, nghiên cứu đến ứng dụng và doanh nghiệp, kèm cơ chế theo dõi, đánh giá, điều chỉnh linh hoạt để bảo đảm hiệu quả.

 Hướng dẫn sinh viên Trường đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội thực hành quan sát vết đen mặt trời với kính thiên văn. (Ảnh: USTH)

Hướng dẫn sinh viên Trường đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội thực hành quan sát vết đen mặt trời với kính thiên văn. (Ảnh: USTH)

Các nhà khoa học thuộc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam kiến nghị, cần nhanh chóng xây dựng và ban hành một Chiến lược vũ trụ quốc gia đến năm 2040, tầm nhìn 2050, trong đó, trụ cột là phát triển hệ thống vệ tinh quan sát trái đất quốc gia như LOTUSat, MicroMinsat và VNREDSat.

Song song với đó là đầu tư hạ tầng và thiết lập các trung tâm nghiên cứu mạnh, nơi hội tụ các nhà khoa học đầu ngành, tạo điều kiện để hình thành đội ngũ “Tổng công trình sư” - những người đóng vai trò kiến trúc sư cho các chương trình vũ trụ quốc gia.

Dữ liệu vệ tinh cũng cần được nhìn nhận như một tài nguyên quốc gia, được tích hợp vào Trung tâm Dữ liệu quốc gia, phục vụ cho các lĩnh vực như quản lý môi trường, nông nghiệp thông minh, an ninh-quốc phòng và dự báo thiên tai.

Đại diện Vụ Khoa học kỹ thuật và công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ, cho biết, đơn vị sẽ phối hợp Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng chương trình đào tạo liên ngành về công nghệ vũ trụ, gắn với các đề án phát triển nguồn nhân lực công nghệ chiến lược.

Bên cạnh đào tạo, phải xây dựng chính sách thu hút, giữ chân và phát huy đội ngũ chuyên gia giỏi. Ngoài lương thưởng, cần tạo cơ hội nghề nghiệp rõ ràng, cơ chế giao đề tài lớn, trao quyền nghiên cứu và đầu tư phát triển các trung tâm dữ liệu không gian, phòng lab hiện đại, giúp chuyên gia có thể phát triển năng lực một cách toàn diện. Cần coi khoa học vũ trụ và công nghệ viễn thám là ngành nghề chiến lược, từ đó có hệ thống pháp lý, chính sách hỗ trợ tương ứng.

Kết nối chính sách

Về chính sách, Nhà nước cần sớm xây dựng các cơ chế ưu tiên trong phát triển nguồn nhân lực viễn thám, vũ trụ như học bổng dài hạn, quỹ nghiên cứu riêng, chế độ đãi ngộ đặc thù, cũng như kế hoạch bồi dưỡng, tập huấn thường xuyên cho cán bộ công tác tại bộ, ngành, địa phương.

Một hệ thống đãi ngộ cạnh tranh, môi trường nghiên cứu thuận lợi, cùng với cơ hội tham gia các dự án quốc tế sẽ là điều kiện để giữ chân chuyên gia giỏi trong nước, đồng thời thu hút chuyên gia người Việt Nam từ nước ngoài về đóng góp cho sự nghiệp khoa học công nghệ nước nhà.

 Hướng dẫn sinh viên Trường đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội sử dụng camera siêu phổ. (Ảnh: USTH)

Hướng dẫn sinh viên Trường đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội sử dụng camera siêu phổ. (Ảnh: USTH)

Về hợp tác quốc tế, Việt Nam cần tăng cường kết nối với các tổ chức hàng đầu thế giới như: ESA, NASA, JAXA, các trường đại học, viện nghiên cứu có thế mạnh trong đào tạo và ứng dụng viễn thám, từ đó mở rộng cơ hội trao đổi học thuật, thực tập sinh viên, chuyển giao công nghệ và tham gia các dự án nghiên cứu chung.

Trong bối cảnh nguồn lực ngân sách còn hạn chế, cần khuyến khích sự tham gia tích cực của khu vực tư nhân thông qua cơ chế hợp tác công-tư (PPP), từ đó mở rộng thị trường nhân lực, tăng khả năng tuyển dụng, chia sẻ công nghệ và đào tạo thực hành.

Các doanh nghiệp công nghệ, startup viễn thám nếu có môi trường thuận lợi và chính sách hỗ trợ phù hợp hoàn toàn có thể trở thành nơi ươm mầm, phát triển nhân tài cho đất nước.

Tiến sĩ Lê Xuân Huy, Phó Tổng Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam cho biết, để ngành vũ trụ thực sự phát triển, Việt Nam cần theo đuổi chiến lược nhân lực toàn diện trên ba bình diện: triết học, văn hóa và thể chế. Cần khơi dậy các giá trị như khám phá, phụng sự nhân loại và tư duy dài hạn trong giáo dục. Việc đào tạo không chỉ tạo ra kỹ sư mà cần nuôi dưỡng những người có lý tưởng, dám mơ lớn, vượt qua vùng an toàn. Điều này cần bắt đầu từ sớm, ngay từ cấp tiểu học, trong các hoạt động giáo dục gia đình và truyền thông đại chúng.

Xây dựng các chương trình truyền thông, triển lãm vệ tinh, workshop về dữ liệu không gian, sân chơi STEM, hoặc kết hợp khoa học với nghệ thuật thị giác để đưa vũ trụ gần gũi hơn với giới trẻ. Những câu chuyện truyền cảm hứng sẽ có sức mạnh khơi dậy đam mê bền bỉ hơn bất cứ chính sách hành chính nào. Ban hành Luật Vũ trụ, công nhận “kinh tế vũ trụ” như một ngành kinh tế mới. Đây chính là hành lang pháp lý và nền tảng để nhân lực vũ trụ Việt Nam phát triển một cách bài bản, chuyên nghiệp và hội nhập quốc tế.

-------------------------------

(*) Xem Báo Nhân Dân từ số ra ngày 28/9/2025.

ĐỨC HIẾU LIÊN

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/bai-2-trien-khai-dong-bo-toan-dien-cac-giai-phap-post911251.html