Bài 1 - Nhận diện văn hóa từ căn cốt đến năng lực điều tiết
LTS: Trong bối cảnh toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và chuyển đổi số đang làm thay đổi nhanh chóng đời sống xã hội, yêu cầu nhận thức sâu hơn về vai trò của văn hóa trong định hướng và điều chỉnh hành vi cộng đồng trở nên đặc biệt cấp thiết. Những giá trị và chuẩn mực văn hóa - từ tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ giá trị chân - thiện - mỹ đến cấu trúc chiều sâu của văn hóa - chính là 'hệ điều tiết' mềm nhưng bền vững, giúp xã hội vận hành hài hòa, hạn chế lệch chuẩn và tạo nền tảng phát triển. Với tinh thần đó, Văn Hóa trân trọng giới thiệu loạt bài của GS.TS Đinh Xuân Dũng, nguyên Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương về 'chức năng điều tiết sự vận động và phát triển xã hội của văn hóa' - một góc nhìn lý luận có ý nghĩa trước những biến động mạnh mẽ của thời đại.

GS.TS Đinh Xuân Dũng, nguyên Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương
Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy trong những năm qua, những thành tựu đạt được trong nghiên cứu chung về văn hóa là rất khả quan, giải đáp được nhiều vấn đề cơ bản, song hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp và hệ thống cả về lý luận và thực tiễn chức năng điều tiết của văn hóa.
Một câu hỏi được đặt ra là: Liệu có chức năng điều tiết của văn hóa cùng với các chức năng khác, như nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ, giao tiếp, giải trí... không? Và nếu có chức năng điều tiết thì nội hàm của nó là gì, tác động của nó đối với xã hội như thế nào, và trong thực tiễn, việc sử dụng chức năng đó ra sao để văn hóa phát huy sức mạnh ưu việt của nó trong đời sống xã hội? Đó là những câu hỏi lớn cần sự nối tiếp suy nghĩ, tìm tòi dài lâu.
Trong phần này, chúng tôi đề cập những vấn đề có liên quan đến nhiệm vụ xác định chức năng điều tiết của văn hóa, đó là ba vấn đề: Văn hóa là gì; Cấu trúc của văn hóa; Các giá trị và chuẩn mực văn hóa.
Một số khái niệm về văn hóa
Theo thống kê của PGS. Phan Ngọc, có khoảng 400 định nghĩa về văn hóa. Nguyên do có nhiều định nghĩa như vậy, một mặt do tính phong phú, đa diện trong nhận thức và thực tiễn của văn hóa; mặt khác, khái niệm văn hóa được sử dụng trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, như triết học, dân tộc học, nhân loại học, xã hội học, văn hóa học, folklore, địa - văn hóa học, sử học..., từ đó, nhiều chuyên gia trong các lĩnh vực nói trên đều muốn đưa ra định nghĩa của mình về văn hóa.
Trong sự phong phú và đa dạng đó, một số nhà khoa học đã cố gắng phân loại các định nghĩa về văn hóa theo nhóm.
Ví dụ, trong công trình Văn hóa - những lý thuyết nhân học văn hóa, nhà nghiên cứu văn hóa người Nga A. A. Belik đã nêu lên 4 cách định nghĩa, chủ yếu đối với khái niệm văn hóa, đó là: 1. Cách định nghĩa miêu tả; 2. Cách định nghĩa phân tích; 3. Cách định nghĩa tâm lý; 4. Cách định nghĩa cấu trúc.
Tiếp thu những hạt nhân hợp lý trong cách phân loại trên, đồng thời tham khảo thêm cách phân loại của Wikipedia, trong cuốn sách Văn hóa trong chiến lược phát triển của Việt Nam (GS.TS Đinh Xuân Dũng chủ biên, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2013, tr.21-22) đã nêu lên 6 cách định nghĩa về văn hóa gồm các định nghĩa: Miêu tả, lịch sử, chuẩn mực, tâm lý, cấu trúc và nguồn gốc.
Từ các cách phân loại đó, có thể khái quát đặc trưng chung của các định nghĩa về văn hóa là miêu tả các thành tố chủ yếu làm nên, tạo thành văn hóa và chỉ ra đặc trưng của văn hóa trong sự đối chiếu với các lĩnh vực khác.
Như vậy, có nghĩa là hầu hết các định nghĩa không có ý định bàn sâu, cụ thể về các chức năng của văn hóa, mà chỉ tập trung nhấn mạnh vai trò chung và chức năng tổng hợp (đa chức năng) của văn hóa.
Tuy vậy, nếu nghiên cứu kỹ một số định nghĩa nổi trội, có giá trị khái quát cao, chúng ta thấy trong các định nghĩa đó, bằng cách này hay cách khác, đã đề cập đến vai trò, chức năng điều tiết của văn hóa. Xin nêu một số dẫn chứng sau:
Ở phương Đông, từ “văn hóa” xuất hiện khá sớm trong đời sống ngôn ngữ Trung Hoa. Vào thời Chiến quốc, Mạnh Tử đã nói: “Thánh nhân dùng văn hóa của Hoa Hạ để thay đổi phong tục của người Di, người Địch, chứ chưa ai nói người Hoa bị người Di, người Địch giáo hóa lại” (Mạnh Tử - Đằng Văn Công chương cú thượng, trong Tứ thư do Trần Trọng Sâm, Kiều Bách Vũ Thuận biên dịch, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003, tr.634).
Trong nhận diện văn hóa của Mạnh Tử đã nói đến dùng văn hóa để “thay đổi phong tục” và để “giáo hóa”. Có thể nhận thấy trong đó có vai trò vừa giáo dục vừa điều tiết, điều chỉnh, thay đổi của văn hóa.
Ở phương Tây, theo kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, từ “văn hóa” cả trong tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức, vốn có một từ gốc Latinh là “cultura”, nghĩa là “cày cấy, gieo trồng”. Từ nghĩa gốc ban đầu này, về sau dẫn đến nghĩa rộng hơn là sự vun trồng tinh thần, trí tuệ, là sự vươn tới hoàn thiện.
Điều đó bao hàm rất rõ vai trò của văn hóa, trong đó, không thể nào khác là nuôi dưỡng tinh thần, là tạo sự hài hòa (hoàn thiện), mà để đạt được sự hài hòa, hoàn thiện đó phải qua sự tự điều tiết, tự điều chỉnh, nghĩa là tự vượt mình.
Có lẽ, nhận ra sứ mệnh đó của văn hóa mà sau này, ở thế kỷ XVIII, nhà triết học Đức nổi tiếng Herder đã khẳng định: Văn hóa là sự hình thành lần thứ hai của con người.
Khoảng đầu những năm 30 của thế kỷ XX, nhà xã hội học Mỹ gốc Nga Pitrim A. Sorokin, người sáng lập Khoa Xã hội học của Đại học Harvard cho rằng: Với nghĩa rộng nhất, văn hóa chỉ tổng thể những gì được tạo ra hay được cải biến bởi hoạt động có ý thức hay vô thức của hai hay nhiều cá nhân tương tác với nhau và tác động đến lối ứng xử của nhau.
Luận điểm này nhấn mạnh đến quan hệ qua lại giữa con người với con người. Xử lý các quan hệ đó đạt tới trình độ văn hóa cao, bao giờ con người cũng cần sự điều tiết, điều chỉnh.
Với cách suy nghĩ và trình bày độc đáo của một nhà văn hóa lớn, Jawaharlal Nehru, Thủ tướng đầu tiên của nước Cộng hòa Ấn Độ đã tập trung làm nổi bật bản chất nhân tính nằm sâu trong ngữ nghĩa của khái niệm văn hóa.
Ông tự đặt câu hỏi rồi lại tự giải đáp: “Văn hóa - đó có phải là sự phát triển nội tại của con người hay không? Tất nhiên rồi. Đó có phải là cách ứng xử của anh ta với người khác không? Nhất định là phải. Đó có phải là khả năng làm cho người khác hiểu mình không? Tôi cho là như vậy” (The Time of India, ngày 9.4.1950).
Để ứng xử có văn hóa và để “làm cho người khác hiểu mình” không thể không bằng phẩm chất văn hóa trong mình, của mình. Chức năng điều tiết của văn hóa thể hiện rõ trong quan hệ trên.
Nhận diện vai trò điều tiết của văn hóa trongđờisốnghiệnđại
Ở Việt Nam, có nhiều nhà khoa học nỗ lực xác định và nhận diện văn hóa.
Liên quan đến vấn đề chức năng điều tiết của văn hóa, chúng tôi xin trích dẫn một quan điểm của nhà văn hóa học lão thành Vũ Khiêu. Ông xác định: “Văn hóa thể hiện trình độ được vun trồng của con người, của xã hội... Văn hóa là trạng thái con người ngày càng tách khỏi giới động vật, ngày càng xóa bỏ những đặc tính của động vật để khẳng định những đặc tính của con người” (Vũ Khiêu, Góp phần nghiên cứu cách mạng tư tưởng - văn hóa, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1987, tr.8).
Để có thể “xóa bỏ những đặc tính của động vật” và “khẳng định những đặc tính của con người”, con người phải tự thay đổi, biến đổi và tự điều chỉnh để phát triển. Sự hình thành các phẩm chất văn hóa sẽ giúp cho con người thực hiện được quá trình trên.
Trong nhận diện về văn hóa của mình, GS Vũ Khiêu đã gián tiếp đề cập đến quá trình điều tiết sâu sắc của văn hóa để con người tách khỏi giới động vật và “khẳng định những đặc tính của con người”, điều đó diễn ra như một quy luật khách quan.
Hội nghị quốc tế bàn về chính sách văn hóa họp tại Mexico tháng 8.1982 đã đưa ra một sự nhận diện chung và toàn diện về văn hóa. Xin được trích thành hai nội dung:
Thứ nhất, một cách nhìn tổng quát về văn hóa, trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng.
Thứhai, Tuyên bố chung của Hội nghị khẳng định: “Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét (tự suy ngẫm) về bản thân. Chính nhờ văn hóa làm cho chúng ta trở thành sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý (cam kết về mặt đạo đức). Chính nhờ văn hóa mà chúng ta nhận rõ các giá trị và đưa ra sự lựa chọn. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, nhận ra sự thiếu hoàn thiện của mình, xem xét những thành tựu của mình, tìm kiếm không mệt mỏi...”.
Hầu như tất cả các từ được sử dụng ở vế thứ hai này đều trực tiếp đề cập đến vai trò điều tiết của văn hóa, chính là các nhân tố tạo thành nội hàm của khái niệm “hệ điều tiết”, như tự suy xét, óc phê phán, cam kết về mặt đạo đức, sự lựa chọn, tự thể hiện, nhận ra sự thiếu hoàn thiện...
Và thật thú vị, một thời gian sau, trong lời tuyên bố mở đầu cho “Thập kỷ văn hóa vì phát triển”, Tổng Giám đốc của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã khẳng định đồng thời vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa nói chung và vai trò điều tiết của văn hóa nói riêng:
“Kinh nghiệm của hai thập kỷ vừa qua cho thấy rằng, trong mọi xã hội ngày nay, bất luận ở trình độ kinh tế nào hoặc xu hướng chính trị và kinh tế nào, văn hóa và phát triển là hai mặt gắn liền với nhau. Nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế tách rời môi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra mất cân đối nghiêm trọng, cả kinh tế, văn hóa và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu...
Phát triển cần thừa nhận văn hóa giữ vị trí trung tâm và vai trò điều tiết xã hội...”.
Như vậy, từ tổng kết sâu sắc thực tiễn đương đại, UNESCO đã đi tới khẳng định rõ ràng chức năng điều tiết xã hội của văn hóa, gắn chức năng đó với phát triển và chỉ ra các thành tố cơ bản tạo thành nội hàm của hệ điều tiết văn hóa.
(còn tiếp)











