Rạng rỡ Việt Nam - Từ Tuyên ngôn độc lập đến khát vọng hùng cường bước vào kỷ nguyên mới - Bài 3

Bài 3: Từ Pác Bó đến Tân Trào - Đất rung tiếng ca, nở hoa tháng Tám

Tháng 5/1945, thời cơ lịch sử mở ra, phát xít Đức đầu hàng Đồng minh, ở Đông Dương, sau cuộc đảo chính Pháp ngày 9/3, phát xít Nhật hoang mang, mất kiểm soát. Trong nước, phong trào cách mạng dưới ngọn cờ Việt Minh dâng cao mạnh mẽ khắp toàn quốc. Nhận định đúng tình hình, lãnh tụ Hồ Chí Minh quyết định rời Pác Bó (Cao Bằng) đến Tân Trào (Tuyên Quang) - trung tâm chỉ đạo mới của Trung ương Đảng. Đây là bước đi chiến lược, chuyển từ chuẩn bị sang tổng khởi nghĩa. Cuộc hành trình bí mật và đầy hiểm nguy ấy không chỉ là sự di chuyển về địa lý mà còn thể hiện một tầm nhìn cách mạng vượt thời đại, tạo nên sự thống nhất tuyệt đối trong lãnh đạo Tổng khởi nghĩa toàn quốc giành thắng lợi.

Dấu chân Người đi - Lòng dân đi cùng cách mạng

Gần 5 năm hoạt động ở Pác Bó (1941 - 1945), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) đã xây dựng căn cứ địa cách mạng vững chắc: phát triển phong trào Việt Minh rộng khắp, xây dựng lực lượng vũ trang, đào tạo cán bộ bài bản, hun đúc tinh thần đoàn kết toàn dân tộc trong nhân dân. Trước cục diện thế giới và chính trị trong nước thay đổi nhanh chóng, sáng 4/5/1945, Người và đoàn cán bộ cách mạng từ Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng) bí mật về Tân Trào (Tuyên Quang) - trung tâm chỉ đạo tiền khởi nghĩa.

Hành trình dài hơn 400 km, qua 10 huyện của 3 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, với 13 điểm dừng chân qua đêm. Đường đi đầy hiểm nguy: vùng địch kiểm soát, gần đồn quân Nhật, núi rừng trùng điệp, sông suối sâu, đèo cao, rừng rậm có thú dữ. Để tránh sự lùng sục của mật thám, đoàn di chuyển chủ yếu vào ban đêm; ban ngày ẩn mình trong rừng hoặc lán tạm. Trong muôn vàn gian khó ấy, đồng bào các dân tộc Nùng, Tày, Mông, Dao… dù đời sống còn nghèo, khó khăn nhưng thủy chung son sắt, nồng hậu đón tiếp, bảo vệ, tin tưởng vào lãnh tụ Hồ Chí Minh và cán bộ cách mạng… như những tấm lá chắn sống đảm bảo an toàn cho cả đoàn.

Ông Hoàng Thăng Bắc, nguyên Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn (nay là xã Ba Bể, tỉnh Thái Nguyên), con trai của đồng chí Hoàng Văn Đàm, Chủ nhiệm lâm thời Việt Minh châu Trưng Vương vẫn nhớ lời cha mình kể về khí thế cách mạng sôi nổi buổi chiều đón ông Ké. Chiều 13/5/1945, Người và cả đoàn đến trung tâm huyện lỵ châu Trưng Vương (nay là xã Ba Bể), nắm rõ phong trào Việt Minh nơi đây đã thu hút hầu hết đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Mông, Dao... tham gia, lập nên Ủy ban lâm thời Việt Minh từ ngày 30/3/1945. Người chỉ thị đồng chí Võ Nguyên Giáp cho triệu tập nhân dân và chính quyền lâm thời đến khu Tổng Luyên (khu 1, xã Chợ Rã) đến nói chuyện. Bà con sốt sắng hỏi: Sau này Việt Minh giành chính quyền về tay sẽ thay đồng tiền Đông Dương của thực dân Pháp thế nào? Quân Pháp có vũ khí tối tân, máy bay, đại bác để bắn giết dân ta chết hàng loạt thì ta lấy gì để đánh thắng quân Pháp? Ông Ké ôn tồn trả lời: Nhiệm vụ quan trọng nhất bây giờ là toàn dân ta đoàn kết theo Việt Minh chuẩn bị các điều kiện tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Khi có chính quyền của nhân dân làm chủ đất nước sẽ lấy ý kiến toàn dân để làm đồng tiền mới của nước Việt Nam. Muốn đánh thắng quân Pháp có vũ khí hiện đại: máy bay, đại bác, đại liên trước hết đồng bào ta phải nêu cao tinh thần đoàn kết, cùng đứng lên đấu tranh cách mạng trong cả nước.

Đồng thời, chúng ta có thêm sức mạnh từ các nước tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh cách mạng chính nghĩa của Việt Nam. Vì thế quân Pháp, Nhật có vũ khí hiện đại thì chúng ta có tinh thần đoàn kết cùng thực hiện “vườn không nhà trống” đem lương thực cất giấu. Pháp, Nhật điều quân, vũ khí từ phương xa đến không có lương thực, không có người để đánh, không quen địa bàn khi đó chúng ta đánh du kích tiêu diệt dần sinh lực địch… Như vậy quân Pháp dù có “vũ khí tối tân không bằng toàn dân đoàn kết!”.

Nghe ông Ké phân tích dễ hiểu, có lý, mọi người vỗ tay vang dội hưởng ứng và hô vang: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công!”. Cho đến nay, lời nói của ông Ké tại Tổng Luyên “vũ khí tối tân không bằng toàn dân đoàn kết” được chính quyền và người dân mãi khắc ghi làm kim chỉ nam cho mọi hành động.

Mỗi địa bàn Người và đoàn công tác đi qua đều được đồng bào, tổ chức cơ sở bảo vệ, canh gác bí mật nơi ăn nghỉ, dẫn đường xuyên rừng, đánh lạc hướng bọn mật thám. Sự bảo vệ tự nguyện và tuyệt đối đó không chỉ là nghĩa tình mà còn là lòng tin tuyệt đối vào Đảng để làm cách mạng, đảm bảo cho đoàn đến Tân Trào. Trên hành trình, Người tranh thủ gặp gỡ cán bộ địa phương, đồng bào các dân tộc để truyền lửa cách mạng, kịp thời chỉ đạo tình hình chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Đó là minh chứng sống động cho tinh thần gần dân, vì dân, lấy dân làm gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Lãnh tụ Hồ Chí Minh và cán bộ cách mạng chia tay bà con Pác Bó, xã Trường Hà (Cao Bằng) đi Tân Trào (Tuyên Quang) ngày 4/5/1945. Ảnh: T.L

Lãnh tụ Hồ Chí Minh và cán bộ cách mạng chia tay bà con Pác Bó, xã Trường Hà (Cao Bằng) đi Tân Trào (Tuyên Quang) ngày 4/5/1945. Ảnh: T.L

Tân Trào - Trái tim của Tổng khởi nghĩa

Ngày 21/5/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh và cả đoàn hành trình đến địa phận xã Hồng Thái, Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang). Khi Người đến, nơi đây đã trở thành căn cứ địa cách mạng an toàn từ con đường “Nam tiến” (1943 - 5/1945). Cả huyện Sơn Dương, trong đó xã Tân Trào đã thuộc tầm kiểm soát của Ban Việt Minh, có Ủy ban cách mạng lâm thời, toàn dân sôi sục khí thế đấu tranh cách mạng. Tất cả đã sẵn sàng cho Người đặt đại bản doanh an toàn làm việc để chuẩn bị các điều kiện, chờ thời cơ chín muồi phát lệnh tổng khởi nghĩa toàn quốc giành chính quyền. Từ tháng 5 - 8/1945, trong căn lán nhỏ lợp lá cọ đơn sơ trên rừng Nà Nưa, xã Tân Trào (Tuyên Quang) khát vọng độc lập dân tộc trong ý chí, trái tim vĩ đại của lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng ra chủ trương, đường lối, sách lược đúng đắn, chớp thời cơ “nghìn năm có một” tiến hành tổng khởi nghĩa.

Theo cuộc hành trình của Người, chúng tôi đến Khu di tích Quốc gia đặc biệt Tân Trào (Tuyên Quang), ngôi nhà của ông Nguyễn Tiến Sự, thôn Tân Lập đón Bác Hồ năm xưa vẫn còn ấm câu chuyện kể về Bác: Từ ngày lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng về Tân Trào, bà con hết lòng phục vụ cán bộ cách mạng. Nhà thì đặt cơ quan in báo, nhà thì đặt điện đài, nhà thì bộ đội giải phóng quân ở cùng… Các hộ trong bản đều là nơi đón các đại biểu về dự Quốc dân Đại hội đến nghỉ. Trường Quân Chính kháng Nhật cũng được mở ngay tại xã. Cánh đồng Kim Long là điểm tiếp nhận hàng viện trợ từ máy bay của quân đồng minh thả xuống cho Mặt trận Việt Minh - Bà Nguyễn Thị Mai, con dâu ông Nguyễn Tiến Sự xúc động kể.

Trong làng diễn ra nhiều hoạt động của Mặt trận Việt Minh nâng cao dân trí. Ngôi nhà Cứu quốc gần cây đa Tân Trào do đồng chí Trần Thị Minh Châu phụ trách tổ chức nhiều hoạt động diễn kịch, biểu diễn văn nghệ, đốt lửa trại, mở lớp bình dân học vụ… Một tương lai mới đang mở ra mà qua bao năm sống dưới ách nô lệ của quân Pháp, Nhật, dân bản nơi đây chưa bao giờ được biết đến và mong chờ ngày đứng lên giành chính quyền.

Còn trên núi Nà Nưa hình thành một trung tâm “Chỉ đạo tổng khởi nghĩa”. Cùng với lán Nà Nưa - nơi ở của ông Ké còn có Lán đồng minh, Lán điện đài, Lán cảnh vệ, Lán họp Hội nghị toàn quốc… Dù điều kiện làm việc rất đơn sơ nhưng lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã ra được nhiều quyết sách sáng suốt, kịp thời, táo bạo quyết định tổng khởi nghĩa. Người luôn chủ động nắm được tình hình quốc tế, trong nước, liên lạc chặt chẽ với quân đồng minh, tiếp nhận hàng viện trợ vũ khí, đạn dược của quân đồng minh hỗ trợ cho lực lượng Việt Minh.

Lệnh Tổng khởi nghĩa hiệu triệu toàn dân đứng lên giành chính quyền

Ngày 12/8/1945, nắm thời cơ quốc tế thuận lợi và tình hình trong nước chín muồi, lãnh tụ Hồ Chí Minh đề nghị triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng tại khu rừng Nà Nưa (14 - 15/8/1945). Sau khi phân tích kỹ cục diện, Hội nghị khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới”, quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Anh, Tưởng kéo vào. Mục tiêu giành độc lập hoàn toàn, thành lập chính quyền nhân dân, thi hành 10 chính sách lớn của Việt Minh. Hội nghị lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do đồng chí Trường Chinh phụ trách. Ngày 13/8, Ủy ban ra Quân lệnh số 1, hạ lệnh tổng khởi nghĩa trên toàn quốc.

Ngày 16/8/1945, trong không khí sục sôi, Quốc dân Đại hội khai mạc tại đình Tân Trào (16 - 17/8/1945) - “Hội nghị Diên Hồng” của thời đại mới với đại biểu Bắc - Trung - Nam và Việt kiều. Chị Lò Thị Mai, hướng dẫn viên Khu di tích Quốc gia đặc biệt Tân Trào, kể lại: Đình Tân Trào hôm đó được trang hoàng rực rỡ, cờ đỏ sao vàng tung bay, quanh đình căng vải đỏ, bày sách báo cách mạng; trên sàn là ghế tre, bàn chủ tịch, lá cờ Tổ quốc. Chủ trì là đồng chí Trường Chinh; lãnh tụ Hồ Chí Minh được bầu vào Đoàn Chủ tịch với tên Hồ Chí Minh. Đại hội bàn hai vấn đề lớn: quyết định toàn dân vũ trang khởi nghĩa; bầu Ủy ban dân tộc giải phóng, Hồ Chí Minh làm Chủ tịch - sẵn sàng trở thành Chính phủ lâm thời khi cần. Đại hội kết thúc thắng lợi, nhân dân Tân Trào liên hoan chào mừng, khí thế cách mạng dâng cao.

Sáng 17/8/1945, Ủy ban Dân tộc giải phóng ra mắt, Hồ Chí Minh đọc lời tuyên thệ trước đình Tân Trào: “…Dù hy sinh đến giọt máu cuối cùng, quyết không lùi bước! Xin thề!”. Lời thề ấy vang vọng khắp núi rừng, lay động hơn 20 triệu con tim, thôi thúc toàn dân đứng lên.

Chiều 16/8/1945, dưới bóng đa Tân Trào, thực hiện lệnh Ủy ban khởi nghĩa, đồng chí Võ Nguyên Giáp thay mặt toàn quốc đọc Quân lệnh số 1, hạ lệnh xuất quân. Đoàn quân Giải phóng rầm rập lên đường, hát vang “Nam tiến”, tiến về giải phóng Thái Nguyên rồi về Hà Nội, mở đầu thắng lợi Tổng khởi nghĩa tháng Tám. Từ Tân Trào, khí thế cách mạng lan khắp non sông, quân dân vùng dậy như vũ bão, quét sạch phát xít Nhật, thực dân Pháp và tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân.

GS.TS Lê Văn Yên: Từ Pác Bó đến Tân Trào là quyết định mang tính chiến lược đến thành công của cuộc Tổng khởi nghĩa là minh chứng cho sự chỉ đạo nhạy bén, kịp thời và chính xác của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh). Đó cũng là biểu tượng của sự kết nối hoàn hảo giữa tư tưởng cách mạng và hành động cụ thể, giữa căn cứ địa cách mạng và trung tâm chỉ huy toàn quốc; bài học quý giá cho hôm nay về sự nhạy bén trước thời cuộc, về tinh thần đoàn kết toàn dân, về ý chí vượt khó và về niềm tin sắt đá vào con đường cách mạng.

Cao Bằng và Tuyên Quang hôm nay là hai địa phương in dấu hành trình lịch sử đang nỗ lực bảo tồn và phát huy giá trị các di tích cách mạng để truyền cảm hứng và giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ mai sau. Trên hành trình đổi mới, phát triển, ánh dương từ Pác Bó và tiếng trống từ Tân Trào vẫn vọng vang, dẫn lối dân tộc vững bước tương lai..

Bài 4: Cao Bằng - Cội nguồn cách mạng đi đầu Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945

Trường Hà - Lý Thắng

Nguồn Cao Bằng: https://baocaobang.vn/rang-ro-viet-nam-tu-tuyen-ngon-doc-lap-den-khat-vong-hung-cuong-buoc-vao-ky-nguyen-moi-bai-3-3179603.html