Giải pháp bảo vệ chất lượng nguồn nước hồ Dầu Tiếng
Hồ Dầu Tiếng là công trình thủy lợi quan trọng đặc biệt, liên quan an ninh quốc gia quy mô lớn nhất Đông Nam Á. Trong bối cảnh đô thị hóa nhanh, áp lực khai thác gia tăng và tình hình biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, việc bảo vệ chất lượng nguồn nước hồ Dầu Tiếng đang trở thành yêu cầu cấp thiết mang tính chiến lược.

Hồ Dầu Tiếng được thiết kế phục vụ khai thác đa mục tiêu.
Hồ Dầu Tiếng có dung tích hữu ích hơn 1,11 tỷ m³, diện tích mặt nước khoảng 270km², giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong bảo đảm an ninh nguồn nước cho vùng Đông Nam Bộ. Từ hồ chứa này phục vụ đa mục tiêu, mỗi năm hàng tỷ mét khối nước được điều tiết phục vụ tưới tiêu sản xuất nông nghiệp, cấp nước sinh hoạt, công nghiệp, đẩy mặn và ô nhiễm, cắt lũ và cải thiện môi trường nước cho hạ du sông Sài Gòn, Vàm Cỏ Đông. Trong bối cảnh đô thị hóa nhanh, áp lực khai thác gia tăng và tình hình biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, khốc liệt việc bảo vệ chất lượng nguồn nước hồ Dầu Tiếng đang trở thành yêu cầu cấp thiết mang tính chiến lược quốc gia.
Theo ông Trần Quang Hùng, Tổng Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Khai thác Thủy lợi miền nam: “Hồ Dầu Tiếng được thiết kế phục vụ khai thác đa mục tiêu có nhiệm vụ cung cấp nước tưới trực tiếp cho gần 117.000ha đất nông nghiệp, tạo nguồn và hỗ trợ tưới cho khoảng 45.000ha, cấp nước sinh hoạt, công nghiệp công suất khoảng 3,7 triệu m³/ngày đêm, ứng lưu lượng 43,9 m³/giây. Chất lượng nguôn nước của hồ có ý nghĩa sống còn đối với phát triển kinh tế-xã hội toàn vùng”.
Nguồn cấp nước chiến lược cho vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ
Hệ thống thủy lợi Dầu Tiếng-Phước Hòa hiện nay đang cấp nước thô cho Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Nai. Tổng lưu lượng nước sinh hoạt, công nghiệp đang khai thác hằng năm đạt khoảng khoảng 168 triệu m3 tương ứng công suất 461.000m3/ngày đêm (5,3 m3/giây), trong đó Thành phố Hồ Chí Minh đang sử dụng 87 triệu m3, tương ứng 240.000 m³/ngày đêm; Tây Ninh: 64 triệu, tương ứng 176.000 m³/ngày đêm; Đồng Nai 17 triệu, tương ứng 45.000 m³/ngày đêm.
Bên cạnh đó, hồ Dầu Tiếng hằng năm còn duy trì xả dòng chảy môi trường 20-36 m³/giây về hạ du sông Sài Gòn và khoảng 5m³/giây qua kênh Phước Hội-Bến Đình về sông Vàm Cỏ Đông, góp phần đẩy mặn, hỗ trợ tạo nguồn cho hơn 61.000ha đất nông nghiệp ven sông, cải thiện môi trường sinh thái và bảo đảm ổn định nguồn nước và cân bằng dòng chảy.
Với vai trò “trái tim” của hệ thống thủy lợi khu vực, bất kỳ sự suy giảm nào về chất lượng nước hồ đều có thể gây tác động dây chuyền đến sinh hoạt của 3-5 triệu người dân, hoạt động của hàng nghìn cơ sở sản xuất và toàn bộ hệ sinh thái hạ du.
Chất lượng nước ổn định nhưng áp lực ngày càng lớn
Kết quả quan trắc trong nhiều năm cho thấy, chất lượng nước hồ Dầu Tiếng hiện cơ bản đạt mức A và B theo QCVN 08:2023/BTNMT, đáp ứng yêu cầu cấp nước sinh hoạt và sản xuất. Các chỉ tiêu pH, DO, TSS, Coliform, độ đục (NTU) nhìn chung ổn định; mùa khô ít biến động, vào khoảng đầu và cao điểm mùa mưa có tăng nhẹ do tác động của dòng chảy tràn từ các nhánh sông, suối thượng nguồn đổ về hồ.
Tuy nhiên, số liệu theo dõi giai đoạn gần đây cho thấy một số chỉ tiêu như BOD₅, COD và tổng nitơ có xu hướng tăng, nhất là tại các nhánh suối thượng nguồn. Đáng chú ý, năm 2024 ghi nhận 34 loài tảo có khả năng sinh độc tố, tăng hơn 3 lần so giai đoạn 2022-2023. Mặc dù mật độ tảo vẫn dưới ngưỡng cảnh báo của WHO (<20 triệu tế bào/lít), song xu hướng gia tăng phản ánh áp lực dinh dưỡng ngày càng lớn trong lưu vực.

Ông Trần Quang Hùng, Tổng Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Khai thác Thủy lợi miền nam phát biểu tại Hội thảo Quản lý chất lượng môi trường trong hệ thống thủy lợi.
Theo ông Trần Quang Hùng, nguồn gây áp lực chủ yếu đến từ nước thải sinh hoạt trên lưu vực, vùng ven hồ, cơ sở nhà máy sản xuất chế biến, canh tác nông nghiệp trên đất bán ngập, nuôi cá lồng bè, hoạt động giao thông thủy và hoạt động khai thác cát. Đây là những nguy cơ ô nhiễm cục bộ, nếu không được kiểm soát chặt chẽ sẽ tích tụ, làm cho khả năng tự làm sạch của hồ bị quá tải từ đó gây ra sự suy giảm chất lượng nước về lâu dài.
Giải pháp đồng bộ, hướng tới quản lý thông minh
Thực hiện Kết luận số 36-KL/TW của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước, Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, trong đó nhấn mạnh yêu cầu chú trọng ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ; đẩy mạnh chuyển đổi số để quản lý vận hành, điều tiết và bảo vệ nguồn nước, ứng phó với thiên tai liên quan đến nước, thích ứng với biến đổi khí hậu, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Khai thác Thủy lợi miền nam đã từng bước triển khai các giải pháp công nghệ số nhằm bảo vệ chất lượng nguồn nước hồ Dầu Tiếng.
Để bảo vệ chất lượng nguồn nước, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Khai thác Thủy lợi miền nam đã triển khai quan trắc định kỳ tại 18 điểm trên toàn hệ thống thủy lợi Dầu Tiếng-Phước Hòa, bao gồm các nhánh suối đầu nguồn đổ về hồ, trong lòng hồ, các cống đầu kênh và trên các nhánh kênh trên hệ thống (kênh chính đông, kênh chính tây và kênh Đức Hòa). Năm 2025, công ty thực hiện lấy mẫu đột xuất tại 9 vị trí nhạy cảm,kết quả cho thấy 7/9 vị trí đạt chất lượng nước tốt, 2 vị trí ở mức trung bình,chủ yếu tại khu vực thượng nguồn và được tích hợp theo dõi trên Website: qln.thuyloimiennam.vn.
Bên cạnh công tác quan trắc truyền thống, công ty đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ giám sát trực quan và số hóa dữ liệu, hệ thống 68 camera giám sát, 12 phao phân giới cùng với nền tảng WebGIS giúp theo dõi hành trình tàu khai thác cát đã được đưa vào vận hành, giúp kiểm soát chặt chẽ các hoạt động có nguy cơ gây ô nhiễm trong lòng hồ, khoanh vùng ô nhiễm, góp phần bảo vệ an toàn nguồn nước thô.
Về lâu dài, công ty định hướng xây dựng mô hình quản lý chất lượng nước thông minh, mục tiêu đến năm 2035 là đưa hồ Dầu Tiếng trở thành hồ chứa nước thô đa mục tiêu thông minh đầu tiên của Việt Nam. Theo lộ trình, hệ thống sẽ được đầu tư 35-50 trạm quan trắc tự động, tích hợp dữ liệu thời gian thực lên bản đồ WebGIS và hệ thống SCADA quản lý chất lượng nước; đồng thời ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong dự báo tảo lam với độ chính xác hơn 97%. Trên nền tảng dữ liệu số hóa đồng bộ, hệ thống hỗ trợ ra quyết định vận hành hồ chứa (DSS) sẽ được xây dựng, cho phép phân tích, cảnh báo sớm và đề xuất phương án ứng phó sự cố môi trường cho phép rút ngắn thời gian phản ứng sự cố từ 6-12 giờ xuống dưới 30 phút.
Theo đánh giá chuyên môn, khi chất lượng nước thô được kiểm soát ổn định bằng các giải pháp công nghệ hiện đại, chi phí xử lý nước sinh hoạt tại các nhà máy sẽ giảm 25-35; đồng thời nâng cao mức độ an toàn và niềm tin của người dân đối với nguồn nước cấp.
Khẳng định quyết tâm bảo vệ nguồn nước chiến lược, ông Trần Quang Hùng nhấn mạnh: “Bảo vệ chất lượng nước hồ Dầu Tiếng là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài, đòi hỏi quản lý tổng hợp, liên tỉnh và ứng dụng công nghệ 4.0. Chúng tôi cam kết tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các cơ quan đơn vị, địa phương liên quan, chủ động chuyển đổi số để giữ gìn hồ Dầu Tiếng, nguồn nước ngọt quý giá nhất miền nam”.











