Còn đây vết kiếm lưng trời

Từ phía bờ sông Kỳ Cùng, đoạn chảy qua chợ Na Sầm nhìn lên núi Phjia Mòn sừng sững, thấy rõ hình vết kiếm rạch sâu vào đá từ gần đỉnh xuống tận chân núi, ngay sát tấm bia Diễn Trận bên đường Bốn anh hùng.

Bia và núi Diễn Trận (Phje Mòn) ở xã Na Sầm

Bia và núi Diễn Trận (Phje Mòn) ở xã Na Sầm

Phjia Mòn là ngọn núi nằm phía tây bắc thị trấn Na Sầm, huyện Văn Lãng (cũ), nay thuộc thôn 3 xã Na Sầm. Vách đá sừng sững như bức tường thành, soi bóng trên dòng sông Kỳ Cùng. Đường số 4 men theo chân núi hướng về những địa danh lịch sử: Bó Củng, Lũng Vài…, Ngọn núi còn có tên chữ là Diễn Trận Sơn do Đốc Trấn Lạng Sơn Ngô Thì Sĩ (1726-1780) đặt. Đây là một trong những ngọn núi đá vôi nổi tiếng ở Lạng Sơn do có những hang động cổ, dù cho núi không cao lắm, đỉnh cao nhất chỉ khoảng trên 100 m so với mặt đường 4A.

Hồi tôi còn nhỏ, cứ mỗi lần qua cầu để lên dốc Bó Củng chơi cùng chúng bạn, tôi hay ngửa cổ lên để ngắm cái “Bảng Tiên” trên vách núi. Đấy là một vòm đá nhô ra trên sườn núi, được bạt phẳng, theo chiều nghiêng, chếch xuống mặt đường. Giữa vòm đá phẳng ấy, có một tấm bia hình chữ nhật, vuông thành sắc cạnh, bề mặt nhẵn nhụi, có khắc 7 hàng chữ Nho theo chiều dọc. Vì tấm bia cách xa mặt đất đến 30 m, lại trải qua năm tháng gió mưa, nên nhìn chỉ thấy là chữ Nho, được khắc vào mặt đá, chứ người Na Sầm cũng không đọc được là chữ gì, nội dung gì. Và tấm bia ấy, được người Na Sầm gọi là “Bảng Tiên” vì nghĩ chỉ có tiên, Phật mới có thể bào phẳng được vòm đá núi, thành một tấm bảng nghiêng xuống mặt đường như thế, lại còn khắc được cả chữ Nho vào đá như thế!

Sau này, khi công tác văn hóa, bảo tồn bảo tàng được chú trọng, thấy có chuyên gia về Na Sầm, bắc giáo trèo lên, lau lau chùi chùi, khắc lại từng nét chữ, rồi sao chép mang đi dịch, mới biết đấy là Bia Diễn Trận Sơn, ghi lại cuộc tuần thú biên cương năm 1779 qua Na Sầm của Đốc trấn Ngô Thì Sĩ, cùng với bài thơ tứ tuyệt. Nội dung văn bia Diễn Trận Sơn được giáo sư Hoàng Giáp (Viện Nghiên cứu Hán- Nôm) dịch như sau

Phiên âm: Cảnh Hưng Kỷ Hợi quý đông, phụng hành biên quân hoàn, bạc chu sơ hạ, tập chư quân thủy trận pháp, đăng sơn quan chi nhân danh, kinh túc hồ doanh lưu đề nhất tiểu luật.

Sơn thanh như đại thủy như do

Bất kiến anh hùng cựu tích du

Thôi khách ngẫu phùng tác tri kỷ

Cầm tôn quan kiếm vị trì lưu.

Nhị Thanh cư sĩ Ngô Thì Sĩ đề tịnh thư

Dịch nghĩa: Tháng cuối đông năm Kỷ Hợi (1779), theo lệnh trên đi tuần thú biên giới. Lúc trở về độ thuyền dưới núi, luyện tập thủy chiến. Lên núi quan duyệt, nhân đấy đặt tên cho núi là Diễn Trận sơn. Nghỉ lại một đêm rồi về quân đình, để lại một bài thơ tứ tuyệt:

Núi xanh đậm như lông mày vẽ, nước lóng lánh như thoa dầu

Không tìm đâu ra vết dấu cũ của các bậc anh hùng đã từng qua đây

Kẻ thô vụng này ngẫu nhiên gặp cảnh đẹp này nên kết thành tri kỷ

Bầu rượu, cây đàn, túi thơ, thanh gươm, mão mũ, cùng ta cứ lưu luyến mãi cảnh này mà không đi được.

Bài thơ được Phó Giáo sư- Tiến sĩ Trần Thị Băng Thanh dịch như sau:

“Non xanh mày vẽ, nước như dầu

Chẳng thấy anh hùng dấu cũ đâu

Khách vụng duyên may kết tri kỷ

Gươm đàn không nỡ vội rời nhau.”

Ngô Đốc trấn vâng lệnh trên đi tuần thú biên cương, lúc trở về đỗ thuyền dưới núi, thì chắc chắn là ngài đi tuần thú bằng thuyền dọc sông Kỳ Cùng, đến tận biên giới với Trung Quốc. Chứng tỏ thời ấy khúc sông Kỳ Cùng đoạn chảy qua Na Sầm lúc ấy khá lớn, nhiều nước, mực nước hẳn phải dâng đến chân núi Phjie Mòn, chỗ gần tấm bia đá bây giờ. Nếu không thì sao người xưa có thể bạt đá, khắc bia như thế?

Không chỉ đi tuần du, Ngô Đốc trấn còn chỉ huy cho luyện tập thủy chiến trên sông và mình thì lên núi quan duyệt. Càng cho thấy dòng sông Kỳ Cùng xưa rất sâu và rộng.

Xa hơn, vào thế kỷ 13, sông Kỳ Cùng đã thấp thoáng trong lịch sử, gắn với cuộc chiến chống nhà Tống của các vua Trần. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Kỷ Hợi, năm thứ 8 (1239)…Vua thân đi đánh các trại Vĩnh An, Vĩnh Bình của nước Tống phía đường bô, rồi đi qua các châu Khâm, Liêm…bỏ thuyền lớn ở trong cõi, chỉ đi bằng các thuyền nhỏ …” Theo Hoàng Xuân Hãn, trại Vĩnh Bình gồm phần đất của châu Tư Minh, Bằng Tường, một phần Tư Lăng và một phần đất ở bắc ngạn sông Kỳ Cùng. Phó GS, Tiến sĩ Vương Toàn lý giải “Sau khi đánh dẹp hai trại này vua Trần Thái Tông cùng đoàn quân trở về bằng đường thủy từ Quảng Đông sang Quảng Tây qua Ninh Giang, qua ải Bình Nhi vào sông Kỳ Cùng đến Na Sầm về Lạng Sơn”.

Sau này, sông Kỳ Cùng vẫn là một đầu mối giao thông quan trọng, khiến cho phố Na Sầm trở thành một vùng đất “trên bến, dưới thuyền”. Ấy là vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, người Pháp đã đầu tư xây dựng tuyến đường sắt Hà Nội- Lạng Sơn đến Đồng Đăng. Sau đó “người ta làm tiếp một đoạn 17 km từ Đồng Đăng lên Na Cham nối với đoạn sông tàu bè đi lại được của sông Kỳ Cùng. Đoạn này được khai thác từ ngày 15 tháng 11 năm 1921” ( “Các công trình giao thông công chính Đông Dương- kỹ sư Nguyễn Trọng Giai dịch- In lần thứ 2- NXB Giao thông Vận tải Hà nội, 1998) .

Sách “Văn Lãng đất và người” của Tiến sĩ Hoàng Văn Páo và sách “Na Sầm- Thị trấn vùng biên” của Đảng ủy- UBND thị trấn Na Sầm xuất bản năm 2010 đều ghi nhận: “Có một thời kỳ, tuyến đường sông Long Châu (Trung Quốc)- Na Sầm, dài khoảng 50 km đã được khai thác. Vào những ngày nước to, thì thuyền lớn (thuyền tam bản trọng tải 3 tấn) có thế đến tận Bản Tích. Số lượng thuyền hoạt động trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn vào năm 1922 được thống kê là 918 thuyền các loại, trong đó loại trọng tải từ 0, 6 tấn đến 6 tấn có 8 cái.”

Đến bây giờ, thì mực nước sông Kỳ Cùng đoạn qua Na Sầm còn rất ít, vào mùa khô từ khu vực núi Diễn Trận nhìn xuống thấy có nhiều chỗ có thể lội qua được. Chỉ có thể tưởng tượng, những năm cuối thế kỷ 18, dòng sông Na Sầm nước mênh mông, sau mấy vòng uốn lượn, đã chảy song song với núi Diễn Trận- Phjie Mòn đến tận Bình Độ mới đổi hướng đổ vào Trung Quốc. Và những thuyền tuần du, thuyền chiến, thuyền buôn đã từng xuôi ngược qua đây, đã từng neo dưới chân núi này, để lại một tấm “Bảng Tiên” vẫn vẹn nguyên từng nét chữ khắc sâu vào đá.

Ngay bên cạnh tấm bia, có vết nứt sâu chạy chéo từ đỉnh núi xuống chân núi. Vết nứt rất sắc nét, rạch sâu vào đá, như hình nhát kiếm, do một người khổng lồ, cầm thanh gươm khổng lồ vung lên, với sức mạnh phi thường, khắc lời thề thiêng liêng giữa đất trời.

Có đến ba truyền thuyết về vết nứt này, trong đó có câu chuyện “Hai anh em”, “Hai chị em” để giải thích cho cái tên Háng Slẹc (Chợ Rạch) của núi. Nhưng tôi nghiêng về câu chuyện “Vết gươm khổng lồ” kể về người dũng sĩ năm xưa đánh giặc phương Bắc hơn. Vì chỉ có trong tư thế của người tráng sĩ hùng dũng, uy nghiêm, cháy bỏng lòng yêu nước, ngùn ngụt lòng căm thù giặc ngoại xâm, mới có thể vung cánh tay cuồn cuộn sức mạnh, tạc lời thề sống thác vì nước non giữa trời đất bao la.

Nói về hang động cổ, Phjia Mòn có nhiều hang nằm rải rác từ chân núi đến lưng chừng núi, có hang tít tận gần đỉnh núi. Hồi còn nhỏ, tôi hay theo các anh chị đốt lốp xe làm đuốc đi thám hiểm những hang nhỏ gần chân núi. Khi chui ra đứa nào đứa ấy mang hai lỗ mũi đen sì về nhà ăn đòn. Có hang Pác Ả khá rộng, hồi chiến tranh biên giới năm 1979, trước khi lên đường sơ tán vào Hội Hoan, nhà tôi cùng một số gia đình ở khu 4 đã mang chăn màn vào hang, chia nhau ngủ trong các hốc đá để tránh pháo kích. Hang này thông suốt lòng núi, ngoằn ngoèo mở sang tận phía đường ra Bản Hu .

Gần trên đỉnh núi, có cái hang miệng nhỏ nhưng lòng rộng, bao nhiêu năm có lời đồn là nơi giấu của cải của người xưa, hoặc người Tàu. Nhiều thanh niên trong phố, vừa tò mò, vừa liều lĩnh tìm cách leo lên để kiểm chứng và lại có thêm lời đồn, rằng trong hang có nhiều quan tài, nhiều bộ hài cốt hình như của người cổ…

Để giải mã những lời đồn đó, ngày 3 tháng 12 năm 2022, UBND huyện Văn Lãng phối hợp với Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Lạng Sơn, Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành Khảo sát hang đá Phja Mòn, kết quả khảo sát ban đầu cho thấy:

“Hang đá Phja Mòn nằm giữa tâm dãy núi đá trên quốc lộ 4A thuộc địa phận thị trấn Na Sầm, hang có độ cao trên 70m tính từ mặt đất. Sau khi khảo sát thực địa, dưới sự hỗ trợ của Câu lạc bộ treo động Hà Nội, đoàn công tác đã tiến hành vào bên trong hang Phjia Mòn. Theo ghi nhận, trong hang có 15 quan tài, trong đó còn 3 cái nguyên vẹn, bên cạnh đó phát hiện nhiều mảnh sành, đồ trang trí …

Theo các nhà chuyên môn, quan tài cổ và các hiện vật phát hiện tại hang có khoảng thời gian từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 18. Hiện đang chờ kết quả giám định của Viện Khảo cổ Việt Nam.”

Phjia Mòn- núi Diễn Trận quê tôi, thế là ẩn giấu rất nhiều bí mật, rất nhiều câu chuyện huyền bí, phải chờ sự vào cuộc, nghiên cứu, thẩm định của giới khoa học, mới có thể sáng tỏ và phần nào. Và khi ấy, biết đâu, lại phát hiện ra những bí mật, những câu chuyện huyền bí khác?

VŨ KIỀU OANH

Nguồn Lạng Sơn: https://baolangson.vn/con-day-vet-kiem-lung-troi-5067052.html