Yuri Andropov: Tổng Bí thư tới từ KGB

Yuri Vladimirovich Andropov sinh ra từ 105 năm trước, ngày 15 (2) tháng 6 năm 1914 trong gia đình một công nhân đường sắt tại tỉnh Stavropol. Trong đội ngũ những nhà lãnh đạo xuất sắc của nhà nước Xôviết, ông đã lập nên được một kỳ tích có một không hai: là Tổng Bí thư duy nhất của Đảng Cộng sản Liên Xô và là Chủ tịch duy nhất của Đoàn Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô, đi lên nắm giữ những vị trí này từ cương vị lãnh đạo cơ quan an ninh (Chủ tịch Ủy ban An ninh Quốc gia, KGB).

Theo bài viết của nhà nghiên cứu Andrei Vedyaev trên tạp chí Istorik (Nhà sử học) số ra tháng 6/2019, trước Yuri Andropov ở Liên Xô đã có một nhân vật cũng định phát triển như vậy nhưng bất thành: đó là Lavrenti Beria. Sau khi lãnh tụ Stalin qua đời tháng 3/1953, Beria giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ đổi mới, bao gồm cả cơ quan an ninh quốc gia. Trong thực tế, Beria ở thời điểm đó là một trong ba thủ lĩnh hàng đầu của đất nước. Tuy nhiên, tình huống này đã không làm hài lòng cả lực lượng quân sự lẫn đội ngũ thượng tầng chính trị trong Đảng Cộng sản Liên Xô nên chỉ ba tháng sau, ngày 26/6/1953, Beria đã bị sát hại. Còn Yuri Andropov đã trụ lại được ở đỉnh cao quyền lực quốc gia lâu hơn – 15 tháng, từ ngày 12/11/1982 cho đến khi qua đời vì trọng bệnh ngày 9/2/1984…

Chấn chỉnh kỷ cương

Khi trở thành Chủ tịch KGB trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô ngày 18/5/1967, Yuri Andropov đã ngay lập tức phải đối mặt với tình trạng lộn xộn trong tổ chức và hoạt động của cơ quan an ninh quốc gia, di sản để lại từ giai đoạn Nikita Khrushchev cầm quyền. Thiếu tướng Nikolai Gubernatorov, một huyền thoại của ngành an ninh Xôviết, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Điều hành KGB, nhớ lại: “Ở thời điểm đó tôi đang là điều tra viên bậc cao thuộc Cục 6 Tổng Cục Điều hành KGB và có ấn tượng tiêu cực đối với ba cựu Chủ tịch vốn là những người tình cờ lên nắm giữ cương vị đó nhờ quan hệ thân hữu với N.S. Khrushchev”. Ba người tiền nhiệm của Yuri Andropov trên ghế Chủ tịch KGB đều không thấu hiểu công việc của ngành an ninh và đã không quan tâm tới việc đổi mới đội ngũ cán bộ. Ngược lại, trong những năm họ nắm quyền ở KGB, những cán bộ giàu kinh nhiệm nhất hoặc bị xử án hoặc bị sa thải. Chính vì thế nên KGB mới để xảy ra một số thất bại tai tiếng và trong xã hội xuất hiện những mầm mống của nền kinh tế ngầm, tội phạm có tổ chức và tham nhũng. Bởi vậy, một trong những việc đầu tiên mà Andropov bắt tay vào thực hiện là tiến hành một cuộc cải cách cán bộ một cách đích đáng. Toàn bộ hệ thống đào tạo cán bộ an ninh đã được tổ chức lại, những phương thức khoa học mới được áp dụng vào thực tế, một chương trình giáo dục sâu sắc được tiến hành với đội ngũ cán bộ an ninh.

Phát biểu trước các học viên Trường An ninh Cao cấp KGB, Andropov đã nhấn mạnh: “Hãy đi sâu vào trong nhân dân, tuân thủ luật pháp và lẽ công bằng, hãy thể hiện sự từ tâm và tính nhân văn, chính những tình cảm này làm nảy sinh tình yêu Tổ quốc. Hãy nâng cao tri thức trong nghiên cứu tiếng mẹ đẻ, văn học và thừa kế những sức mạnh tinh thần của lịch sử đất nước chúng ta. Không gì thì chính hệ tư tưởng của chúng ta cũng được hình thành trong quá trình phát triển của lịch sử. Và tất cả chúng ta bây giờ đều đang sống và tuân thủ theo bộ quy tắc của những người xây dựng chủ nghĩa cộng sản, bộ quy tắc đã tiếp thu vào mình những tiêu chí tinh thần đạo đức lịch sử tốt đẹp nhất – từ những lời răn Thiên chúa giáo tới trí tuệ dân gian, bởi lẽ nước Nga luôn nổi lên nhờ sức mạnh tinh thần vô tận của mình và luôn vươn mình đứng dậy khi vượt qua những chấn động lớn lao”. Nhằm mục đích đấu tranh với những trò phá hoại tinh thần, Andropov đã lập ra Tổng cục 5, tái lập và xây dựng bộ máy tổ chức mới của đơn vị đặc biệt được thành lập từ những năm 40 của thế kỷ trước. Đầu tiên đơn vị đó được hoạt động dưới dạng các khóa hoàn thiện trình độ cán bộ KUOS rồi được chuyển thành nhóm đơn vị đặc nhiệm Vympel. Chính Andropov đã lập ra đơn vị chống khủng bố Alfa, đòi hỏi xây dựng các hệ thống công trình hiện đại cho trường cao cấp KGB (nay là Học viện FSB) trên đại lộ Mitchurin và trụ sở cơ quan tình báo đối ngoại (nay là SVR) ở khu Yasenevo.

Ngày 27/4/1973, Andropov được bầu vào Bộ Chính trị BHCTƯ Đảng Cộng sản Liên Xô. Dần dà ông đã nhìn thấy rất rõ ràng mức độ tham nhũng cao mà đội ngũ tinh hoa quản lý kinh tế của Đảng nhiễm phải và trách nhiệm nặng nề của Bộ Nội vụ trong tệ nạn này. Theo mệnh lệnh của chính Andropov, năm 1975 đã thành lập các đội điều tra về các vụ việc liên quan tới những phần tử sản xuất hàng hóa trái phép. Theo lời kể của thiếu tướng Boris Uvarov, cựu điều tra viên về các vụ tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng, “nếu nói về vai trò của Andropov trong cuộc đấu tranh chống tội phạm có tổ chức, thì đó là một vai trò rất lớn, thể hiện trong tinh thần năng nổ vốn có của các cán bộ an ninh, khả năng mau lẹ tiếp cận xử lý thông tin về các đối tượng nghi vấn và sự chi tiết, chu tất trong điều tra khám xét. Trong vụ việc này, chính cá nhân tôi đã bắt tới hơn 100 người – cùng lúc tiến hành khám xét ở những thành phố khác nhau trong cả nước hơn 120 cơ sở. Không thể giam giữ tất cả những nghi phạm này trong một nhà tù, nên tôi đã đưa ra tới nhiều nơi trong nước Nga”.

Những mạng lưới di căn của tham nhũng đã ăn sâu từ các nước cộng hòa miền nam tới Moskva, trong đó nhiễm vào cả những người thân cận với Tổng Bí thư Leonid Brezhnev. Giữa những nghi phạm bị bắt giam có cả Yadgar Sadykovna Nasriddinova, người từ năm 1970 tới năm 1974 đã giữ chức Chủ tịch Hội đồng Dân tộc thuộc Xôviết Tối cao Liên Xô. Khi trả lời thẩm vấn, bà này đã khai là đã nhờ Galina Brezhneva, con gái của Tổng Bí thư, dẫn tới gặp Leonid Brezhnev khi vấn đề bắt giữ bà ta được đưa ra. Hai người đã tới khu Rubliovka để gặp Leonid Brezhnev. Tổng Bí thư đã nghe Nasriddinova trình bày câu chuyện của mình – về việc các cuộc khám xét đang được tiến hành, về việc chánh án tòa án tối cao Uzbekistan, bạn của Nasriddinova đã bị bắt giữ, và đã bắt giữ cả một người tên là Dzhumabayev, Giám đốc nhà máy chế biến bông rất lớn, có sản phẩm được dùng để sản xuất da nhân tạo được tuồn cho những kẻ sản xuất ngoài luồng. Dzhumabayev bị bắt vì đã đưa hối lộ nhằm cứu con trai mình thoát khỏi tội giết người. Dzhumabayev đã khai tên họ và số tiền hối hộ cho Bí thư thứ Nhất, Bí thư thứ Hai và Chánh án Tòa án Tối cao Uzbekistan... Sau khi Nasriddinova gặp được Tổng Bí thư, tướng Uvarov mặc dù nắm đủ thông tin trong tay nhưng lại nhận được lệnh tạm thời chưa triển khai tiếp vụ án. Và sau đó nhận được lệnh tiếp theo là không động tới Nasriddinova…

Ngày 12/11/1982, Andropov được bầu làm Tổng Bí thư và không lâu sau đó đã bắt đầu triển khai vụ điều tra lớn đối với Nhà Thương mại Trung tâm Moskva, dẫn tới việc bắt giam hơn 15 nghìn nghi phạm. Các nhân viên KGB đã gài các phương tiện video và audio theo dõi tại văn phòng của Yuri Sokolov, Giám đốc cửa hàng thực phẩm lớn nhất nước Eliseyev. Các nhân viên an ninh đã phát hiện ra việc nhiều khách hàng là cán bộ cao cấp tới đó. Và vào các thứ sáu hàng tuần, giám đốc các chi nhánh đã tới gặp Sokolov và đưa phong bì cho ông này. Quá trình điều tra đã phát hiện ra rằng, trong vụ án Nhà Thương mại Trung tâm Moskva, đã có tới 757 cán bộ lãnh đạo các cơ sở thương mại và nhiều cơ quan khác được liên kết với nhau bằng những mối quan hệ kinh tế phi pháp bền chắc. Và mới chỉ thông qua lời khai của 12 bị cáo đã để lộ ra số tiền hối lộ lên tới 1,5 triệu rub – đấy là ở thời điểm năm 1983, khi mức lương 220 rub một tháng đã được coi là cao ngất ngưởng trong xã hội Xôviết, còn vé đi xe công cộng chỉ ở mức từ 3 đến 5 côpếch (một rub bằng 100 côpếch). Sokolov và nhiều bị cáo đã bị kết án mức cao nhất, tất cả giám đốc các cửa hàng lớn nhất ở Moskva nếu không tự sát thì đều phải nhận những mức án cao. Đồng thời, cuộc đấu tranh chống lại mạng lưới mafia bông cũng đã được triển khai. Theo lệnh của Yuri Andropov, một đội điều tra viên gồm những chuyên gia giỏi nhất của KGB và các cơ quan tư pháp đã được đưa tới nước cộng hòa Uzbekistan. Đoàn điều tra viên đặt trụ sở chỉ huy tại tòa nhà KGB ở thủ đô Tashken của Uzbekistan. Kết quả của chiến dịch thanh lọc lớn này là nhiều lãnh đạo Đảng, các cơ sở kinh tế, thương mại của Uzbekistan và cả ở cấp liên bang đã bị bắt, bị khởi tố. Bộ trưởng Bộ Nội vụ Liên Xô Nikolai Shchelokov đã phải tự sát. Số phận tương tự cũng tới với lãnh đạo nước cộng hòa Uzbekistan, Sharaf Rashidov. Tiếp sau đó người ta đã kết án tù đối với cả Thứ trưởng Bộ Nội vụ Yuri Churbanov, con rể của Tổng Bí thư Brezhnev…

Những thông tin chính thức về việc bắt giữ những nghi phạm trong giới mafia thương mại và quan chức, chìm đắm trong xa hoa và tội lỗi, được đại đa số nhân dân Liên Xô thời đó đón nhận một cách hồ hởi. Trong thời gian 15 tháng mà Andropov giữ vị trí lãnh đạo cao nhất quốc gia, ông đã bãi chức 18 Bộ trưởng ở cấp Liên bang và 37 Bí thứ thứ Nhất ở các tỉnh – trong thực tế đó là toàn bộ các lãnh đạo Đảng ở các địa phương. Ngay trong quý I-1983 đã đạt được mức tăng trưởng sản xuất ở Liên Xô thêm 6%. Trong cả năm 1983 của “thời Andropov”, tăng trưởng thu nhập nền kinh tế quốc dân đã đạt mức 3,1%, còn mức tăng trưởng công nghiệp là 4%. Trong không khí đó, việc xảy ra những vụ truy bắt các phần tử vô công rồi nghề trong giờ hành chính ở Moskva đã không gây nên những bất mãn hay xáo động gì lớn…

Tổng Bí thư Liên Xô Yuri Andropov (giữa) tại Quảng trường Đỏ (năm 1983). (Ảnh: Boris Yurchenko / Associated Press).

Tổng Bí thư Liên Xô Yuri Andropov (giữa) tại Quảng trường Đỏ (năm 1983). (Ảnh: Boris Yurchenko / Associated Press).

Chống cuộc thập tự chinh

Tất cả những việc diễn ra như thế đều được theo dõi sít sao từ bên kia đại dương – rõ ràng là ở thời điểm đó, Liên bang Xôviết đang có những cơ hội thực tế để vượt qua Mỹ và giành lấy ưu thế trong “chiến tranh lạnh”. Tuy nhiên, CIA cũng dần dà tìm ra được “gót chân Achille” trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, mắt xích yếu mà Washington hy vọng có thể tác động vào để gây nên sự sụp đổ dây chuyền. Đó chính là Ba Lan, nơi vẫn duy trì được thế mạnh của nhà thờ Thiên chúa giáo và tâm lý bài Nga truyền thống. Và có lẽ đây cũng là một trong những lý do dẫn tới việc ngày 16-10-1978, một người Ba Lan đã đăng quang tại Vatican. Đó là giáo hoàng Gioan Phaolô II. Yuri Andropov với tư cách người lãnh đạo KGB đã ngay lập tức báo cáo thông tin này tới Bộ Chính trị và nhận định, sự chọn lựa của Vatican đã tạo nên mối đe dọa đối với toàn bộ khối Hiệp ước Varshava. Ngay trong năm 1979, giáo hoàng Gioan Phaolô II đã quay về thăm Ba Lan, kêu gọi phản kháng dân sự, dẫn tới gia tăng vị thế của công đoàn Đoàn kết, giúp tổ chức này mau chóng thu hút thêm thành viên, lên tới 10 triệu người... Đầu năm 1981, ở Mỹ Tổng thống Ronald Reagan đã chính thức nhậm chức với chính sách thiên hữu mạnh mẽ hơn trước. Reagan đã phái tới Vatican nhà ngoại giao kiêm hoạt động gián điệp khét tiếng Vernon Walters, tác giả của cuộc đảo chính phát xít đẫm máu tại Chile năm 1973 và giám đốc CIA William Casey, một tín đồ Thiên chúa giáo nồng nhiệt, người trong những năm 1981–1984 (tức là cho tới khi Andropov qua đời) đã không dưới 15 lần tới Vatican trên máy bay riêng được lắp đặt đầy đủ hệ thống liên lạc trực tiếp với Nhà trắng. Hai nhân vật này đã cam kết với giáo hoàng rằng Washington sẽ hỗ trợ đầy đủ về tài chính, vật chất và chính trị cho công đoàn Đoàn kết. Trong những điều kiện như thế, đêm 12 rạng ngày 13-12-1981, Hội đồng Quân sự Cứu nguy Dân tộc của Ba Lan đã bắt buộc phải ra lệnh thiết quân luật. Nửa năm sau, tháng 6-1982, Reagan đã đích thân tới thăm giáo hoàng Gioan Phaolô và giáo hoàng đã khích lệ Tổng thống Mỹ dấy lên cuộc thập tự chinh mới chống lại Liên Xô…

Đồng thời CIA đã đổ thêm dầu vào lửa đối với những hoạt động nguy hiểm ở khu vực biên giới phía nam giáp Liên Xô. Ngay từ mùa hè năm 1979, tình báo Mỹ đã bắt đầu chiến dịch “Lốc xoáy” hỗ trợ tài chính cho phe đối lập ở Afghanistan và huấn luyện các chiến binh Hồi giáo ở quốc gia láng giềng Pakistan. Hafizullah Amin, người vốn được Moskva ủng hộ và đang nắm quyền lực ở Kabul từ 16/9/1979, dần dà đánh mất sự kiểm soát đối với tình hình và bắt đầu tìm cách tiếp cận với Pakistan, Trung Quốc và các nước phương Tây. Điều này có thể tạo cơ hội cho NATO triển khai các căn cứ quân sự của mình với cả các tên lửa hạt nhân ở gần biên giới với Liên Xô. Trước nguy cơ đó, tháng 11/1979, Andropov đề xuất phương án quân sự và ngày 27/12/1979, lực lượng đặc nhiệm của KGB và nhóm Alfa đã tấn công cung điện của Amin cùng nhiều trụ sở các cơ quan chính phủ ở Kabul, tạo tiền đề cho một sự thay đổi chính thể và việc đưa quân đội Xôviết vào Afghanistan. Hoạt động của các sĩ quan KGB, dưới sự chỉ huy tại thực địa của hai vị tướng Boris Ivanov và Yuri Drozdov gây ấn tượng mạnh mẽ tới mức ngày 19/8/1981, theo quyết định của Andropov, trong thành phần Tổng cục S (tình báo không công khai) đã thành lập đơn vị Vympel để thường xuyên thực hiện các chiến dịch tại hải ngoại, trước hết để chống lại các căn cứ quân sự của NATO đang vây quanh dày dặc các khu vực biên giới của Liên Xô và các nước thuộc khối Hiệp ước Varshava. Ở đây cũng cần nhớ tới việc, ngay từ ngày 12/12/1979, Hội đồng NATO đã thông qua “quyết định kép” cho phép triển khai tới năm 1983 tại châu Âu 572 tên lửa Pershing-2 có thời gian bay từ 6 tới 8 phút. Việc này cho phép Mỹ ra đòn nguyên tử phủ đầu vì các tên lửa tầm trung và tầm thấp không được tính đến trong các hiệp ước đã được ký ở thời điểm đó về hạn chế vũ khí chiến lược. Và chính trong tình thế phức tạp này, Andropov đã tiếp quản đất nước năm 1982.

Như trợ lý của Yuri Andropov, thiếu tướng Gubernatorov, sau này viết: “Đứng đầu KGB trong suốt một thời gian dài rồi sau đó đứng đầu cả quốc gia Xôviết, Yuri Andropov là một trong những người có được nhiều thông tin nhất thế giới. Ông đã nhận được tài liệu từ những nguồn tin cậy khác nhau, kể cả từ những nguồn thu thập trên sóng radio và những cuộc nghe lén điện thoại đối với những nhân vật đã lọt vào trong tầm ngắm của KGB ở Liên Xô cũng như ở nước ngoài. Nếu thêm vào đó một trí tuệ anh minh bẩm sinh, tính lương thiện ở mức độ cao, sự tinh tế hiếm có của Yuri Vladimirovich, từ một góc độ, cả lòng trung thành vô điều kiện của ông đối với Tổ quốc và các lý tưởng của chủ nghĩa xã hội (không bị hoen ố bởi những tội lỗi nhuốm máu và nạn tham nhũng), từ góc độ khác, thì độc giả sẽ hiểu ra được những tiến thoái lưỡng nan khủng khiếp nào mà con người này đã phải đối mặt”. Andropov đã hiểu rất rõ rằng mọi sự đang tiến gần tới chiến tranh. Nhưng cũng giống như Stalin từng hành động, ông đã cố gắng làm mọi việc để đẩy lùi nguy cơ đó. Phân tích những ghi chép công vụ mới được công bố gần đây của Andropov cho thấy: Ngay trong nửa đầu năm 1982, sau khi ông rời KGB sang làm việc ở BCHTƯ Đảng Cộng sản Liên Xô, đã thay đổi rõ rệt môi trường tiếp xúc của ông. Hướng làm việc chủ đạo của ông trong giai đoạn này là các vấn đề liên quan tới quan hệ quốc tế (11 cuộc gặp với Trưởng ban Đảng về các nước xã hội chủ nghĩa Konstantin Rusakov, 5 cuộc gặp với Trưởng ban Quốc tế Boris Ponomariov và 6 cuộc gặp với cố vấn ở “Quảng trường Cũ” Georgi Arbatov. Sau khi trở thành Tổng Bí thư, Andropov đã gia tăng hoạt động của mình với các lãnh đạo Ban Kinh tế Đảng Vladimir Dolgikh và Nikolai Ryzhkov cũng như với Mikhail Gorbachev. Bối cảnh tình hình ngày càng trở nên rõ ràng: Liên Xô ở thời điểm đó ngày càng một khó khăn hơn khi phải chịu đựng gánh nặng của cuộc chạy đua vũ trang, Gorbachev, với tư cách là một chính trị gia năng động còn trẻ, bắt đầu từ những năm 70 đã phải thực hiện nhiều cuộc xuất ngoại kéo dài tới các nước tư bản chủ nghĩa như Italia, Pháp, CHLB Đức và Bỉ. Bản thân Andropov sinh thời không một lần nào sang thăm các nước tư bản chủ nghĩa…

Trong điều kiện phải đối đầu với nhà thờ Thiên chúa giáo, được coi như những đồng minh tự nhiên là những thế lực chính trị vốn không bao giờ thỏa hiệp với Vatican vì lý do nạn diệt chủng Do Thái (Holocaust). Cho tới nay nhiều tổ chức Israel vẫn buộc cho giáo hoàng Piô XII tội đã không lên án nạn diệt chủng Do Thái trong chiến tranh thế giới thứ hai. Cũng vì lý do này mà quan hệ ngoại giao giữa Israel với Vatican chỉ được thiết lập vào tháng 12/1993. Tháng 3/2000, giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tới Israel với tư cách cá nhân một người hành hương và gặp gỡ với Tổng thống Ezer Weizman và Thủ tướng Ehud Barak…

Cũng phải nói rằng, Andropov sinh thời chưa bao giờ nghĩ Gorbachev là người sẽ kế nhiệm mình và cũng chưa một lần giao cho Gorbachev nhiệm vụ thay mình điều hành các cuộc họp của Bộ Chính trị, những dư luận về việc Andropov dường như đã chuẩn bị Gorbachev cho vị trí Tổng Bí thư tương lai hay dường như ông là người khởi hứng cho perestroika theo cách mà Gorbachev đã làm, đó hoàn toàn là kết quả của những trò bịa chuyện từ phía một số nhà viết sử “giàu trí tưởng bở” cũng như từ phía những cựu quan chức lật mặt với chế độ Xôviết…

Hàng loạt những công việc bất thành và thất bại đã đổ xuống đầu chế độ Xôviết sau khi Andropov qua đời với những tình tiết cũng bí ẩn không kém gì câu chuyện xảy ra với cái chết của lãnh tụ Stalin. Theo nhận định của tạp chí Istorik, nếu chính sách thực tế của Andropov được tiếp tục thực hiện thì hẳn Liên bang Xôviết đã không những có thể được bảo toàn mà còn phát triển không kém phần năng nổ so với CHND Trung Hoa và vượt lên trước được so với phương Tây. Tuy nhiên, trong thực tế, mọi sự lại diễn ra theo kịch bản khác. Năm 1987, giáo hoàng Gioan Phaolô II đã trở về thăm Ba Lan một cách hoành tráng và trong cuộc bầu cử quốc hội tháng 6/1989, công đoàn Đoàn kết đã thu được 99 trong số 100 ghế nghị sĩ. Bắt đầu quá trình tan rã khối Hiệp ước Varshava và tiếp theo là Liên bang Xôviết. Cũng trong tháng 12/1989, Gorbachev đã tới Vatican để thiết lập quan hệ ngoại giao và đã có một bài phát biểu mang tính “sám hối” tại cuộc gặp với giáo hoàng Gioan Phaolô II. Cuộc thập tự chinh chống lại Liên Xô đã kết thúc như thế.

Tuy nhiên, ngay cả sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga vẫn nhận được một xung lực mới để phát triển như một quốc gia độc lập có chủ quyền, giàu tiềm lực kinh tế và quân sự. Liên bang Xôviết không còn nữa nhưng nền văn hóa Nga vẫn tồn tại và phát triển. Và viên đá cuối cùng được ốp vào nó chính là nhờ Yuri Andropov.

Nguyễn Trung Tín

Nguồn Đại Đoàn Kết: http://daidoanket.vn/tinh-hoa-viet/yuri-andropov-tong-bi-thu-toi-tu-kgb-tintuc445854