Xác định quyền sở hữu tài sản của vợ chồng: Phải căn cứ vào Luật có hiệu lực ở thời điểm tạo lập tài sản!

Nhiều độc giả băn khoăn hỏi: việc xác định quyền sở hữu tài sản của vợ, chồng khi xảy ra tranh chấp dựa trên căn cứ nào, tiêu chí nào để Tòa xác định đó là tài sản chung hoặc tài sản riêng? Có khi nào tài sản được tặng cho riêng có trước thời kỳ hôn nhân vẫn được xác định là tài sản chung vợ chồng?

Hình minh họa

Vấn đề này đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao ban hành hướng dẫn xét xử được đúc kết từ thực tiễn thi hành xét xử. Theo đó, muốn xác định tài sản chung hay tài sản riêng của vợ chồng phải căn cứ vào Luật có hiệu lực ở thời điểm tạo lập tài sản.

Không phải cứ là tài sản có trước khi kết hôn thì là tài sản riêng, cũng không phải tài sản riêng cứ đưa vào sử dụng chung nhiều năm thì đương nhiên trở thành tài sản chung. Xác định tài sản là tài sản riêng hay tài sản chung còn phụ thuộc vào quy định của pháp luật ở thời điểm tạo lập tài sản, thời điểm kết hôn, vào những sự kiện pháp lý làm thay đổi chế độ sở hữu tài sản.

Nhà nước ta đã ban hành nhiều Luật Hôn nhân và Gia đình (HN&GĐ) và có nội dung quy định khác nhau về chế độ tài sản của vợ chồng. Cụ thể, Luật HN&GĐ năm 1959 (có hiệu lực thi hành từ 15/01/1960 đến 02/01/1987 trên lãnh thổ miền Bắc; từ 25/3/1977 đến 02/01/1987 trên lãnh thổ miền Nam) quy định vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới.

Vì vậy, các quan hệ hôn nhân xác lập trong thời kỳ thi hành Luật HN&GĐ năm 1959 nêu trên thì tài sản có trước khi cưới trở thành tài sản chung của vợ chồng kể từ thời điểm kết hôn. Thực tiễn áp dụng pháp luật xác định những tài sản đã trở thành tài sản chung như trên sẽ vẫn là tài sản chung nếu vợ chồng không làm thủ tục phân chia thành tài sản riêng theo quy định của Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000.

Luật HN&GĐ năm 1986 (có hiệu lực từ 03/01/1987 đến 31/12/2000) và Luật HN&GĐ năm 2000 (có hiệu lực từ 01/01/2001) đều có quy định tài sản có trước khi kết hôn là tài sản riêng. Việc chuyển tài sản riêng thành tài sản chung phải theo đúng thủ tục quy định của pháp luật quy định về việc nhập tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng vào tài sản chung tại khoản 1 Điều 13 Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật HN&GĐ là:

“Việc lập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản khác có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng vào tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 32 của Luật HN&GĐ phải được lập thành văn bản, có chữ ký của cả vợ và chồng”. Luật HN&GĐ năm 2015 quy định: “Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung”.

Thực tiễn áp dụng pháp luật vẫn xác định nếu quyền sử dụng đất là tài sản riêng, sử dụng đất đó làm nhà của vợ chồng, nếu không có chứng cứ đã thỏa thuận chuyển thành tài sản chung như có văn bản hay đã sang tên chung thì khi chia tài sản khi ly hôn vẫn xác định nhà và tài sản trên đất là của chung nhưng đất vẫn là tài sản riêng.

PLVN

Nguồn Pháp Luật VN: http://baophapluat.vn//hoi-dap-phap-luat/xac-dinh-quyen-so-huu-tai-san-cua-vo-chong-phai-can-cu-vao-luat-co-hieu-luc-o-thoi-diem-tao-lap-tai-san-365634.html