'Vườn ươm người' nơi thâm sơn cùng cốc

Từ quê lúa Thái Bình, thầy Phạm Xuân Trường đã đến và thầm lặng gắn bó với trò nghèo nơi biên giới xa xôi của huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.

Thầy giáo Phạm Xuân Trường đã hơn 20 năm gắn bó với trò nghèo vùng cao.

Thầy giáo Phạm Xuân Trường đã hơn 20 năm gắn bó với trò nghèo vùng cao.

Quên đi niềm hạnh phúc riêng tư khi chưa có người “nâng khăn, sửa áo”, thầy dành trọn yêu thương cho lũ trò nghèo nơi “thâm sơn cùng cốc”.

Bỏ “phố” lên rừng

22 năm trước chàng thanh niên khôi ngô ấy rời quê lúa Thái Bình. Anh nắn nót từng chữ viết vào lá đơn “xung phong” lên Tây Bắc lập nghiệp. Đó là thầy Phạm Xuân Trường (SN 1979), Hiệu trưởng Trường Phổ thông Dân tộc bán trú (PTDTBT) Sì Lở Lầu, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.

Cũng bởi “trót yêu” nên thầy đeo đuổi đuổi đam mê từ đó. Thời điểm đó, chưa có cơ hội làm giáo viên “chính quy” nên thầy đã tình nguyện xin dạy hợp đồng tại một trường học thuộc huyện Mường Lay, tỉnh Lai Châu (nay là Mường Chà, tỉnh Điện Biên).

“Cũng bởi muốn thực hiện ước mơ trở thành một thầy giáo từ khi còn nhỏ nên tôi đã quyết định đăng ký thi vào Trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình. Chớ trêu thay, thời điểm đó điểm số của tôi không đủ để vào trường. Vì khát khao được đứng trên bục giảng quá lớn, nên tôi xin dạy hợp đồng. Về sau tìm kiếm cơ hội hoàn thiện chuyên môn để được đứng trên bục giảng thực sự”, thầy Trường tâm sự.

Đến tháng 7/2001, sau khi dạy hợp đồng được 3 năm, thầy Trường đã dành hết sức tập trung để ôn thi và theo học Trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên. Sau khi tốt nghiệp, thầy được nhận vào Trường THPT bán trú Sì Lở Lầu, huyện Phong Thổ và công tác đến nay. Trong quá trình công tác, với sự nỗ lực và trách nhiệm, được sự tin tưởng của ngành nên thầy Trường được giao chức vụ hiệu trưởng.

“Tôi còn nhớ như in những ngày đầu đặt chân lên mảnh đất Lai Châu này. Giáo dục của tỉnh ngày ấy vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách. Người dân nơi đây quá nghèo, còn đội ngũ giáo viên vốn đã ít ỏi cũng chẳng khấm khá gì hơn. Thế mà chúng tôi cũng vượt qua được và duy trì cho đến tận bây giờ”, thầy Trường chia sẻ.

Sì Lở Lầu theo tiếng của dân tộc Dao nghĩa là mười hai tầng dốc. Chỉ tên địa danh đã toát lên phần nào những gian nan, khốc liệt ở cái nơi sáng nắng chiều mưa này.

“Hồi đó, trường học còn là những nhà tranh, vách nứa, không điện, không đèn và dường như mọi nẻo đường đến các thôn bản của xã chỉ là những lối mòn quanh co, hiểm trở. Dù vậy, khó khăn là điều tôi vốn đã xác định trước. Và tất cả dường như lại được xóa nhòa khi tôi đứng trên bục giảng”.

Bởi “trót yêu” mà chưa “mảnh tình vắt vai”

Tâm sự về sự nghiệp trồng người nơi miền sơn cước, thầy Trường cho biết, ở vùng cao, mỗi giáo viên ngoài việc dạy chữ, dạy người phải nhận thêm một trọng trách quan trọng nữa, đó là nhiệm vụ của một “tuyên truyền viên, một cán bộ dân vận”.

“Vận động học sinh cũng phải có nghệ thuật và đòi hỏi lòng kiên trì chứ nóng vội, bỏ cuộc là sẽ thất bại ngay”, thầy Trường hài hước ví von.

Chính vì hiểu được công tác là vùng cao biên giới, chủ yếu là các em học sinh dân tộc thiểu số nên nên thầy Trường đã cố gắng tìm hiểu những phong tục tập quán và mong ước của người dân nơi đây. Trên cương vị một người thầy, thầy Trường đã cố gắng tuyên truyền để bà con nhân dân và các em học sinh hiểu được Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến công tác giáo dục đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.

Khi được hỏi về gia đình của mình, thầy Trường cười lặng lẽ nhìn xa xăm kể về gia đình luôn là hậu phương vững chắc động viên, chia sẻ để thầy yên tâm công tác, bám trường, bám bản.

“Tôi thật may mắn khi sinh ra trong một gia đình có đầy đủ tình thương, hết lòng ủng hộ con cái của bố tôi từng là thương binh 2/4 tại chiến trường Quảng Trị. Dù trái gió trở trời là sức khỏe đi xuống nhưng bố tôi vẫn chấp nhận một người con trai xa nhà quanh năm suốt tháng, ủng hộ tôi đem kiến thức đến với các em học sinh vùng cao”.

Vì đắm đuối với những bài giảng, những trang giáo án mà đến nay thầy Trường vẫn chưa tìm được một người “nâng khăn sửa túi”, thầy vẫn lặng lẽ dồn tình yêu, lòng đam mê cho chặng đường đưa chữ đến với thật nhiều học sinh nơi đây.

Thầy Trường tâm sự: “Có lên công tác vùng cao mới thấu hiểu được những khó khăn và tình cảm của bà con và các em học sinh vùng cao. Thứ tình cảm ấy chân thành, mộc mạc, bình dị nhưng tràn ngập sự kính yêu. Ngày hiến chương, với các con vùng cao có thể chỉ là những bông hoa dại mà các con hái được trên rừng, hay củ sắn, củ mài mà phụ huynh gửi tặng, thì đó là món quà vô giá”.

“Tôi tin rằng, chỉ cần nơi nào có học sinh, có những người cần đến con chữ, cần đến người giáo viên thì sẽ luôn có người tình nguyện gắn bó như chúng tôi”, thầy Trường kể tiếp.

Vất vả có, khó khăn thì đầy rẫy, song thầy Trường luôn tin rằng sự nỗ lực “gieo mầm” hôm nay sẽ phần nào giúp trò nghèo nơi biên viễn xa xôi này được tươi sáng hơn.

“Tôi chỉ nghĩ đơn giản rằng, các em là những mầm xanh. Khi được vun xới, chăm sóc mỗi ngày, rồi mai kia các em trở thành lộc biếc, rồi thành cành, ra hoa, đậu quả. Chính những học sinh hiếu học, có đam mê, sau này các em là thầy giáo, cô giáo… đem kiến thức, tình yêu nghề về dạy chữ cho con em đồng bào mình là hành động thiết thực để vun đắp quê hương”, thầy Trường chia sẻ.

Mỗi khi đứng trên bục giảng, thầy Trường cảm nhận được rõ, ẩn sau vẻ nhút nhát, e dè, lam lũ của đám trò nghèo là đôi mắt ngời sáng, trong veo. Những ánh mắt ấy luôn ẩn chứa tinh thần hiếu học, khát khao học chữ và nghị lực sống phi thường. Chính điều này đã tạo động lực để những thầy cô vùng cao như thầy Trường có thêm động lực bám bản, bám trường.

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/ket-noi/vuon-uom-nguoi-noi-tham-son-cung-coc-LDMvCX0MR.html