Vụ giết người ám ảnh nhất Italy

Ngày 26/11/2010, Yara Gambirasio, 13 tuổi, rời khỏi nhà và không bao giờ trở về. Sự biến mất của bé gái đã mở ra cuộc điều tra kéo dài 6 năm khiến 15 nghìn thuê bao bị điều tra và hàng nghìn người phải cung cấp ADN.

Nhiều người dân Italy mang hoa đến tưởng niệm cô bé Yara.

Nhiều người dân Italy mang hoa đến tưởng niệm cô bé Yara.

Đây là một trong những vụ điều tra tội phạm phi thường và phức tạp nhất trong lịch sử Italy.

Vụ mất tích gây chấn động

Thứ Sáu, ngày 26/11/2010, vào lúc 17 giờ 15 phút, Yara Gambirasio, 13 tuổi, rời nhà đến phòng tập cách đó vài trăm mét. Đến 19 giờ, Yara vẫn chưa về nhà khiến bố mẹ em ngày càng lo lắng. Lúc 19 giờ 11 phút, mẹ của Yara gọi điện cho con gái nhưng cuộc gọi chuyển vào hộp thư thoại. 20 phút sau, cha của em gọi điện báo cảnh sát.

Brembate di Sopra, thị trấn nơi gia đình Yara sinh sống, là khu vực có an ninh tương đối tốt, nằm giữa hai con sông Brembo và Adda. Cách Milan một giờ về phía Bắc, thị trấn có khoảng 8 nghìn người sinh sống. Vụ mất tích lập tức gây xôn xao trong khu vực.

Trong vòng vài phút, nữ cảnh sát trưởng Letizia Ruggeri, 45 tuổi, đã điều động toàn bộ lực lượng cảnh sát của tiểu bang và quân cảnh đến thị trấn. Huấn luyện viên thể dục của Yara xác nhận nhìn thấy cô bé đến tập sớm hơn bình thường và khởi động bằng vài động tác nhẹ nhàng trước khi rời đi. Một số người khác chứng kiến hai người đàn ông lạ mặt đứng trò chuyện với Yara gần một chiếc ô tô màu đỏ.

Yara Gambirasio (giữa).

Tín hiệu cuối cùng của Yara là tin nhắn văn bản gửi cho người bạn Martina vào lúc 18 giờ 44 phút, trong đó cả hai hẹn gặp nhau vào 8 giờ sáng Chủ nhật tuần sau.

Đội cảnh sát Italy đã huy động chó nghiệp vụ đánh hơi dấu vết của Yara và tìm thấy tung tích cô bé theo hướng ngược với đường về nhà. Bầy chó dẫn cảnh sát đến Mapello, một ngôi làng nhỏ gần đó. Trùng hợp thay, tín hiệu từ điện thoại di động của Yara cũng cho thấy em đã ở Mapello lúc 18 giờ 49 phút tối mất tích.

Bố của Yara là kiến trúc sư còn mẹ là giáo viên. Cặp đôi đều rất nổi tiếng và được kính trọng trong thị trấn bởi lối sống gần gũi, thân thiện. Họ có bốn người con, trong đó Yara là con gái thứ hai. Em còn một người chị gái, Keba, 15 tuổi và hai em trai dưới 10 tuổi. Những đứa trẻ sống trong sự yêu thương của gia đình và có tính cách vui vẻ, hòa đồng.

Sau ngày Yara mất tích, cảnh sát cài đặt tính năng nghe lén trên hàng trăm thiết bị di động. Khoảng 15 nghìn chiếc điện thoại phát đi tín hiệu ở Mapello trong ngày Yara mất tích được điều tra song cảnh sát không tìm thấy bất kỳ dấu hiệu đáng ngờ.

Thời điểm đó, Brembate di Sopra trở thành trung tâm chú ý của cả nước. Sự biến mất của Yara tiếp tục thu hút sự chú ý của người dân Italy trong suốt 4 năm, trở thành một trong những vụ điều tra tội phạm phi thường và phức tạp nhất trong lịch sử nước này.

Chiều ngày 26/2/2011, ba tháng sau khi Yara mất tích, ông Ilario Scotti, sống tại Chignolo d’Isola, cách thị trấn của Yara, phát hiện một số mảnh quần áo nằm vương vãi trên một khu đất bỏ hoang. Ban đầu Ilario cho rằng đó là quần áo của người dân gần đó nhưng sau đó, anh ta nhìn thấy một đôi giày của nữ với vệt máu dài.

Cùng lúc đó, cảnh sát trưởng Ruggeri nhận được cuộc gọi báo phát hiện một thi thể nằm tại thị trấn Chignolo d’Isola. Thi thể ở trong tình trạng phân hủy nặng nhưng Ruggeri có thể nhìn ra chiếc áo khoác màu đen, chiếc áo thun hình Hello Kitty mà cô bé Yara mặc khi rời nhà.

Xung quanh hiện trường, các nhà điều tra cũng tìm thấy iPod (máy nghe nhạc) và chìa khóa nhà của Yara cùng với thẻ sim, pin điện thoại nhưng thiết bị di động đã biến mất.

Manh mối duy nhất

Nhà pháp y nổi tiếng nhất Italy, GS Cristina Cattaneo, là người trực tiếp tiến hành khám nghiệm tử thi. Bà phát hiện dấu vết của vôi trong đường hô hấp của Yara và những sợi đay – vật dụng thường được dùng làm dây thừng, trên quần áo của cô bé.

Yara không bị cưỡng hiếp. Em bị đa chấn thương do một vũ khí sắc nhọn đâm xuyên qua quần áo ở nhiều vị trí khác nhau. Chuyên gia nhận định Yara đã bị tấn công và bị bỏ rơi.

Dấu vết của vôi và sợi đay cho thấy nhiều khả năng kẻ giết người làm nghề xây dựng. Đội pháp y đã lấy được hai mẫu ADN, một từ pin điện thoại của Yara và một từ hai ngón tay của em nhưng kết quả không trùng khớp với dữ liệu hồ sơ của cảnh sát Italy.

Hai tháng sau, bộ phận điều tra tìm thấy một tình tiết mới đặc biệt quan trọng là ADN của nam giới trên đồ lót của nạn nhân. Nhiều khả năng hung thủ đã bị thương trong cuộc ẩu đả và để lại ADN trên quần áo của Yara. Cuộc truy vết hung thủ chính thức bắt đầu với khối lượng công việc khổng lồ.

Lực lượng cảnh sát điều tra được chia làm hai nhóm, một nhóm chịu trách nhiệm lấy mẫu ADN từ các thành viên trong gia đình, bạn bè cùng trường và thành viên phòng tập thể dục.

Số còn lại tìm kiếm hồ sơ điện thoại, đối chiếu tất cả điện thoại di động chuyển từ Brembate di Sopra đến Chignolo d’Isola vào ngày 26/11/2010. Mỗi người dùng điện thoại phù hợp với yêu cầu đều bị theo dõi và lấy mẫu ADN.

Những nhiệm vụ trên mất rất nhiều thời gian và tốn công sức. Các nhà di truyền học ở Parma, Pavia và Rome phải mất tối thiểu 6 giờ để xét nghiệm ADN và đưa thông tin có thể đọc và so sánh lên máy tính. Chi phí về máy móc và nguồn nhân lực là rất lớn.

Vào thời điểm đám tang của Yara cuối tháng 5/2011, cơ quan điều tra đã thu thập hàng nghìn mẫu ADN nhưng vẫn không có kết quả. Cuộc điều tra trở thành một trong những vụ án tốn kém nhất trong lịch sử Italy.

Gần hiện trường vụ án là hộp đêm Sabbie Mobili, chốn ăn chơi nổi tiếng trác táng và bạo lực. Kinh nghiệm điều tra 20 năm mách bảo sĩ quan Ruggeri rằng, những kẻ sát nhân có xu hướng vứt xác ở những khu vực mà chúng rất quen thuộc. Vì vậy, từ mùa hè năm 2011, các nhà điều tra bắt đầu thu thập ADN bên ngoài hộp đêm này mỗi tối cuối tuần.

Cho đến một ngày, kết quả ADN của một khách hàng trong Sabbie Mobili gần giống với ADN của kẻ bị tình nghi trong vụ án. Người đàn ông này tên là Damiano Guerinoni. Nhưng anh ta nhanh chóng bị loại khỏi danh sách nghi phạm do anh ta có mặt ở Nam Mỹ vào ngày xảy ra vụ án. Các nhà di truyền học cho rằng Damiano là họ hàng gần của kẻ sát nhân.

Qua điều tra về gia đình Damiano, cảnh sát phát hiện một sự thật bất ngờ là mẹ anh ta, bà Aurora Zanni, sống gần nhà Yara và từng làm người giúp việc bán thời gian cho gia đình cô bé suốt 10 năm.

Bà Zanni từng rất gắn bó và thân thiết với gia đình Yara. Bà nhớ Yara luôn trình diễn các bài thể dục cho bà xem trước khi biểu diễn và bà dặn cô bé phải cẩn thận, không để bị thương. Từ năm 2011, bà không còn làm việc cho gia đình Yara nữa.

Hai mẹ con bà Zanni trở thành mục tiêu điều tra, theo dõi sát sao của cơ quan điều tra song không hề có gì khả nghi. Bà Zanni từng đánh giá việc này “quá sức điên rồ” và ADN chỉ là một manh mối trùng hợp vì ADN của con trai bà tương đối giống với ADN của nghi can.

Chi tiết đắt giá

Cảnh sát Italy huy động chó nghiệp vụ lần theo dấu vết mất tích của Yara

Cùng lúc này, áp lực từ dư luận và chính trường lên cuộc điều tra do cảnh sát trưởng Ruggeri chịu trách nhiệm hàng đầu ngày một lớn. Không ít người bị yêu cầu thu thập ADN lên tiếng phản đối và tố cáo cuộc điều tra gây ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Điều này thúc giục cuộc điều tra phải đẩy nhanh tiến độ và sớm tìm ra hung thủ.

Tuy nhiên, ngoài ADN của Damiano, cơ quan điều tra không còn bất kỳ chứng cứ nào sát với cuộc điều tra nên bà Ruggeri quyết định xoáy sâu vào thông tin này. Cảnh sát đã dành nhiều tháng để tổng hợp và xây dựng cây gia phả của gia đình Damiano với hàng trăm cái tên từ năm 1716 đến thời điểm xảy ra vụ án.

Gia đình Damiano xuất thân từ ngôi làng nhỏ Gorno, cách Bergamo 45 phút lái xe về phía Bắc. Cha của Damiano còn một người anh trai tên là Giuseppe Guerinoni đã qua đời vào năm 1999.

Đến đây, các nhà di truyền học tin rằng Giuseppe chính là cha đẻ của mẫu ADN nghi phạm tình nghi giết người. Tuy nhiên, cả hai cậu con trai của ông Giuseppe đều không cho kết quả trùng khớp với ADN của nghi phạm. Hai người này cũng không có con.

Đến đây, cảnh sát đặt ra giả thuyết khả thi cuối cùng là ông Giuseppe có con trai ngoài giá thú. Nhưng điều đó khiến cuộc điều tra ngày càng rối rắm và bế tắc. Từ nghi phạm, cảnh sát chuyển hướng lùng sục một người phụ nữ đã ngoại tình với ông Giuseppe từ khoảng 30 – 40 năm về trước và sinh hạ một con trai.

Qua điều tra, cảnh sát phát hiện đầu những năm 1960, ông Giuseppe thường một mình lui đến khu nghỉ dưỡng Salice Terme ở phía Nam Milan. Trong suốt mùa xuân năm 2012, cảnh sát rà soát hồ sơ, theo dõi tất cả những người phụ nữ đã ở trong khu nghỉ dưỡng cùng thời điểm Giuseppe lưu lại đây. Cuối cùng, họ tìm được một cái tên khả thi – Ester Arzuffi.

Bà Ester từng là hàng xóm của ông Giuseppe nhưng đã kết hôn với một người đàn ông xấu xí, nghèo khổ. Bà đã qua lại vụng trộm với ông Giuseppe và sinh cho ông hai người con, một trai một gái. Cậu con trai tên là Massimo Bossetti, lấy tên theo đệm của Giuseppe.

Trùng hợp thay, Massimo, thời điểm đó 42 tuổi, đã kết hôn và sống ở làng Mapello, nơi cảnh sát thu được tín hiệu điện thoại cuối cùng của Yara. Đặc biệt, anh là một thợ xây – nghề nghiệp trùng khớp với suy đoán của cơ quan điều tra.

Ngày 15/6/2014, cảnh sát giả vờ thiết lập một chốt giao thông đo nồng độ cồn của tài xế để giăng bẫy Massimo. Đến lượt Massimo, họ nói rằng máy đo nồng độ bị hỏng và yêu cầu anh thổi nhiều lần để lấy được mẫu nước bọt. ADN của Massimo cho ra kết quả trùng khớp với ADN của nghi can.

Một ngày sau đó, Massimo bị bắt và buộc tội sát hại Yarra. Các nhà điều tra cũng phát hiện rất nhiều bằng chứng trùng khớp. Đầu tiên, Massimo thường xuyên xuất hiện trong khu nhà Yara, hay đậu xe ở sân sau của phòng tập thể dục và ăn uống ở tiệm pizza gần đó. Massimo cũng là thợ xây ở công trường nơi bố Yara làm kiến trúc sư. Cô bé thường tới đây thăm bố.

Massimo Bossetti bị buộc tội sát hại Yara.

Kết quả điều tra lịch sử

Internet cho thấy Massimo tìm hiểu rất nhiều vụ cưỡng hiếp bé gái. Tín hiệu điện thoại của anh ta xuất hiện ở thị trấn của Yara trong ngày cô bé mất tích nhưng bị tắt từ 17 giờ 45 phút đến 7 giờ 34 phút sáng hôm sau. Vợ Massimo cũng làm chứng anh ta không ở nhà vào đêm xảy ra vụ án.

Cho đến cuối cùng, Massimo vẫn luôn khẳng định bản thân vô tội nên cảnh sát không thể biết động cơ giết người của anh ta. Tháng 7/2016, tòa án Bergamo tuyên án chung thân Massimo vì tội giết người, kết thúc chiến dịch kiểm tra ADN kéo dài 6 năm – chiến dịch truy vết lớn nhất lịch sử Italy.

Anh Khoa (TH)

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/vu-giet-nguoi-am-anh-nhat-italy-post603581.html