Vĩnh Phúc: Về đất Phật nhớ ghé thăm Đền Hạ (Tụ Nghĩa) thờ Quốc mẫu Tây Thiên

Đền Hạ (Tụ Nghĩa) hiện ở thôn Sơn Đình, xã Đại Đình, huyện Tam Đảo (Vĩnh Phúc) nơi thờ Quốc mẫu Tây Thiên- Lăng Thị Tiêu. Ngôi đền có diện tích gần 5.000 m2 cách cổng chính vào Khu danh thắng Tây Thiên về bên trái khoảng 200m. Đền được tu bổ, tôn tạo lại vào những năm 1990 và năm 2010.Tục thờ Quốc mẫu Tây Thiên ở Khu Di tích Tây Thiên thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, Vĩnh Phúc là sự tích hợp và tiếp biến từ nhiều yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, lịch sử, văn hóa xã hội của vùng đất này.

Ngôi đền hiện nay được tu bổ, tôn tạo đã khang trang

Kể về tích của Đền Tụ Nghĩa ông Khổng Văn Đình - Thủ từ ngôi đền chia sẻ: Theo các cụ cao tuổi kể lại, Đền Tụ Nghĩa đã được xây dựng từ rất lâu, không nhớ rõ là niên đại năm bao nhiêu, chỉ nghe được kể lại rằng ngôi đền đã tồn tại nghìn năm và nó gắn liên với sự tích Quốc mẫu Tây Thiên - Lăng Thị Tiêu đã hiển linh tại đây. Cũng được các cụ xưa truyền lại, Mẫu sinh ra ở làng Đông Lộ, Đại Đình, Tam Đảo, vị trí đền thờ ngày nay là nơi mẫu hiển thánh, tập hợp tráng binh luyện quân đánh giặc cứu nước, sau khi đánh trận thắng Mẫu về ngự tại đền, sau đó mẫu lên Tây Thiên (mẫu về trời). Để tướng nhớ công ơn của Mẫu người nhân dân trong vùng đã lập đền thờ, hiện ở Đền Tụ Nghĩa còn có tấm bia đá cổ ghi từ năm Chính Hòa thứ 22 (tức năm 1701, thời vua Lê Hy Tông - PV).

Ông Khổng Văn Đình, Thủ từ Đền Tụ Nghĩa đang kể cho PV về tích của Đền

Đền có 5 ngày lễ vào các ngày âm lịch trong năm đó là ngày mùng 4 tháng Giêng khai xuân, 14/2 rước kiệu, ngày rằm tháng 5, ngày rằm tháng 10 và ngày 23 tháng Chạp là lễ tất niên. Hai tiệc chính là ngày 14/2 (ngày mẫu xuất quân) và 15/10 (mẫu thu quân) có rước kiệu, tế lễ đây là hoạt động thường niên được người dân duy trì từ nhiều năm.

Bia đá cổ tồn tại hàng trăm năm

Cơ duyên đến với đền ông Khổng Văn Đình 73 tuổi (1947) một người lính tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu Nước hiện là Thủ từ đền Tụ Nghĩa chia sẻ. Tôi làm Thủ từ ở đền tính đến nay gần 10 năm, trước đó năm 1966 nhập ngũ đóng quân Tây Nguyên và Nam Lào đến năm 1975 xuất ngũ trở về địa phương công tác kinh qua các vị trí Bí thư đoàn xã, xã đội trưởng và nhiều vị trí đoàn thể khác nữa.

Cây Lim xanh có niên đại ước tính hàng nghìn năm

Năm 2002, đi khám bệnh và được chuẩn đoán là bị K, sau đó tôi lên xin Mẫu (ở Đền Tụ Nghĩa) để bách bệnh tiêu tan. Lúc đó có mấy cô đồng bảo lên xin mẫu, nếu được khỏi bệnh phải lên chấp pháp, thủ từ nhà đến. Sau một thời gian điều trị bệnh thuyên giảm để giữ đúng lời hứa năm 2009, tôi lên đền như đúng lời hứa với Mẫu làm thủ từ từ đó đến nay.

Hướng vào đền được trải nhựa sạch sẽ

Xưa kia, thực dân Pháp cho rằng Việt Minh trú ở đây (Đền) nên mang bom, pháo bắn phá nhưng không trúng, sau đó chúng mang dầu đến đốt để Việt Minh khỏi trú, lúc đó quân Pháp đã phá hết ấn tín, gia phả. Khi nhận được tin Pháp đến thì các cụ trong vùng đã rước tượng Mẫu cùng một quả chuông cất giấu nơi khác mãi đến 1990 mới rước tượng lại đền (lúc đó chỉ là là một ngôi miếu nhỏ). Chuông thì không dám rước về vì miếu đơn sơ sợ mất. Sau đó đền đã được nhà nước đưa vào quản lý.

Phía ngoài đền còn có hai câu đối cổ được lưu lại là Thiên bảo thời hanh sinh quốc mẫu - Địa linh vận thái xuất thần tiên. Phía sau đền có cây Lim xanh cổ thủ, có cây si bám vào có niên đại hàng nghìn năm vừa rồi đến kiểm định cây di sản, nhưng yêu cầu phải gỡ cây si đi nhưng không ai dám gỡ.

Phóng viên Vanhien.vn chụp ảnh kỷ niệm với Thủ từ Đền Tụ Nghĩa

Tháng 12/2018, Đền Hạ (Tụ nghĩa) nhân dân thôn Sơn Đình, Đại Đình, Tam Đảo tiến cử thêm một Thủ nhang, đồng đền mới là bà Nguyễn Thị Thanh Hương việc tiến cử của nhân dân được xã và huyện đồng thuận với mục đích về kêu gọi phối hợp trùng tu, tôn tạo di tích ngày càng khang trang.

Thủ nhang, đồng đền Hạ (Tụ nghĩa) Nguyễn Thị Thanh Hương chụp ảnh kỷ niệm với PV Vanhien.vn

Thủ nhang, đồng đền Hạ (Tụ nghĩa) Nguyễn Thị Thanh Hương chia sẻ: Tôi từng hầu qua nhiều đền ở nhiều nơi trên cả nước nhưng vô tình được biết về tích của Đền Hạ (Tụ nghĩa), chắc là do nhân duyên của tôi với mẫu tôi đồng ý ở làm Thủ nhang ở đây từ cuối năm 2018. Lúc mới về đền việc xây dựng cảnh quan bên ngoài chưa được nhiều như sân, vườn, đường và nhiều hạng mục khác bởi hàng năm ở đền chỉ thu được vài chục triệu tiền công đức, tiền xây dựng tu bổ tôn tạo đền vẫn còn nợ gần 200 triệu chưa trả xong. Với mong muốn đền càng ngày càng khang trang hơn và để người dân trong có nơi sinh hoạt tín ngưỡng thờ mẫu, tôi tự bỏ tiền túi của mình để xây dựng một số hạng mục của đền.

Một hạng mục trong đền đang được đổ bê tông

Tam Đảo có ba ngọn núi cao chót vót nổi lên, mạch núi dài án ngữ một vùng Đông Bắc kinh đô nước Văn Lang. Trong thế đối xứng thì Tam Đảo nằm ở vị trí Tả thanh long thuộc cung tiên rồng xanh (ở bên trái) cùng với núi Tản Viên thuộc Hữu bạch hổ (ở bên phải) thuộc cung tiên bạch hổ, tất cả đều cùng chầu về núi Nghĩa Lĩnh ngọn núi tổ của các Vua Hùng.

Tam Đảo không cách quá xa Kinh thành Thăng Long. Với vị trí linh thiêng nên các vương triều phong kiến xưa đã chọn núi Tam Đảo làm nơi tế tự thần linh núi sông, nhờ đó mà vị sơn thần núi Tam Đảo được tôn vinh là Tam đảo sơn trụ Quốc mẫu tối linh đại vương.

Tam Đảo có núi cao, suối sâu, rừng rậm, mạch núi liên hoành. Với cảnh trí thiên nhiên tươi đẹp, phù hợp với cảnh tu hành. Vì vậy, đây từng là nơi hưng thịnh của Phật pháp, tạo nên sự đối xứng tồn tại giữa hai loại hình thờ Phật và Mẫu.

Tam Đảo ở vào điểm giáp ranh giữa miền núi và đồng bằng, thuộc không gian đồi rừng. Đây là điểm dừng chân tập kết của các cư dân miền ngược trên con đường tiến xuống khai phá đồng bằng. Truyền thuyết dân gian và các tư liệu điều tra dân tộc học và văn hóa học cho thấy từ xa xưa vùng đất này đã từng có mặt nhiều lớp cư dân thuộc các tộc người khác nhau.

Về cơ bản thì những đặc điểm nói trên đã tạo nên một vùng đất Tam Đảo có sự giao thoa, hội nhập của nhiều loại hình tôn giáo, tín ngưỡng. Đó là sự tích hợp của tín ngưỡng dân gian bản địa như tục thờ thần cây, thần đá, sau chuyển thành tục thờ thần núi (sơn thần) cùng các yếu tố du nhập như Phật, Nho, Đạo giáo dân gian và gần đây là đạo Tam phủ, Tứ phủ, biểu hiện rõ nét qua tục thờ Quốc mẫu Tây Thiên.

Bóc tách các lớp truyền thuyết dân gian ở địa phương và căn cứ vào các bản Phả lục Hùng Vương, các cứ liệu dân tộc học, văn hóa học tại các di tích thờ tự..., bước đầu chúng tôi đoán định các lớp tôn giáo tín ngưỡng tham gia vào sự hình thành tục thờ Quốc Mẫu Tây Thiên như sau:

1. Lớp tín ngưỡng thờ thần cây, thần đá của người thiểu số ven chân núi: Dấu vết còn lại của tín ngưỡng này là tục thờ cây, thờ khu rừng cấm nay được lồng ghép với tục thờ Sơn thần ở đền Thỏng, đền Ngò. Có thể thấy truyền thuyết Vua Hùng Vương thứ 7 (Hùng Chiêu vương) kết hôn với người tiên ở núi Tam Đảo là ở giai đoạn này mà câu chuyện vê cuộc hôn nhân giữa vua và tiên chỉ là biểu tượng hóa sự thu nhận văn hóa của một bộ tộc khác vào Nhà nước Văn Lang. Đó là bộ tộc thuộc mẫu hệ, có vu thuật bản địa (tiên trên núi), làm lúa nương, thờ cây và rừng cấm, gần gũi với tín ngưỡng của người Thái ở Tây Bắc ngày nay.

2. Lớp tín ngưỡng thờ thần làng gắn với truyền thuyết nữ thủ lĩnh của địa phương giúp Vua Hùng đánh giặc Thục: Đền Ngò (tức đền Tụ Nghĩa) ở làng Sơn Đình được coi là điểm tập kết luyện binh của Mẫu, từ lâu đã là nơi thờ phụng chung của các thôn Sơn Đình, Đồng Lính, Ấp Đồn. Lớp tín ngưỡng này đã kết tập tục thờ cây, thờ rừng (người Thái cổ) với thờ tục thờ thần làng của người Việt - Mường. Tương truyền ngôi đền Thỏng lúc ban đầu chỉ là ngôi miếu cửa rừng.

3. Lớp tín ngưỡng du nhập các ông thầy phù thủy mà dấu vết còn lưu lại khá rõ ở bài trí đền Thỏng: thờ sư tử hai bên, bát hương công đồng ở giữa, ngũ hổ hạ ban, sơn thần cạnh gốc cây sau đền... Dự đoán đây là dạng điện thần của các ông thầy phù thủy (đạo công) người Nùng họ Lăng đến từ bên kia biên giới, sau Mường hóa. Dòng họ Lăng vốn là dòng họ phổ biến ở khu vực này khoảng trước thế kỷ 17, 18 mà tấm bia công đức ở đền Ngò năm Chính Hòa thứ 22 (1701) Triều Lê là một minh chứng.

4. Thờ Mẫu với tư cách là Thành hoàng của người Sán Dìu (tập trung ở thôn Đông Lộ) khoảng sau thế kỷ 18 với hệ thống nghi lễ nông nghiệp. Đây là giai đoạn Mẫu được tôn xưng là Quốc mẫu Tây Thiên với công lao âm phù đánh giặc.

5. Thờ Mẫu với tư cách là Chúa thượng ngàn trong điện thờ Tứ phủ của người Kinh: Lớp tín ngưỡng này xuất hiện ở Tây Thiên đợt 1 là khoảng nửa cuối thế kỷ 19, đợt 2 rầm rộ hơn vào cuối thế kỷ 20 kéo dài đến ngày nay. Theo quan niệm của các ông/ bà đồng ở Lạng Sơn thì Quốc mẫu Tây Thiên là Chúa đệ Nhất thượng ngàn, được phối thờ ở cung sơn trang trong điện thần Tứ phủ cùng các Chúa đệ Nhị (Nguyệt Hồ), Chúa đệ Tam (Thác Bờ) và Chúa Ngũ Phương.

Như vậy, sự giao thoa, kết tập nhiều lớp tín ngưỡng đã tạo nên đặc điểm tục thờ Quốc mẫu Tây Thiên với những nét cơ bản: Vị thần núi tổ với tư cách là dòng tiên bản địa + vị thủ lĩnh có vai trò giúp vua đánh giặc + vị Quốc mẫu có công âm phù đánh giặc và cuối cùng là ngôi vị Chúa đệ Nhất thượng ngàn chủ về phúc lộc thọ.

Với đặc điểm như vậy, có thể coi Tây Thiên là một trong những cái nôi của sự hình thành biến đổi tục thờ Mẫu ở miền Thượng.

Phúc Vĩnh

Nguồn Văn Hiến: http://vanhien.vn/news/vinh-phuc-ve-dat-phat-nho-ghe-tham-den-tu-nghia-tho-quoc-mau-tay-thien-67128