Việt Nam diễn nghĩa (Tập IV - Kỳ 40)

Trân trọng giới thiệu tiếp Tập IV " NỘI CHIẾN NAM – BẮC TRIỀU" trong bộ Tiểu thuyết Lịch sử "Việt Nam Diễn Nghĩa" của PGS TS Cao Văn Liên do NXB Hồng Đức- Hà Nội ấn hành năm 2020.

Tái hiện “Triết Vương Trịnh Tùng” trong vở tuồng cùng tên do Nhà hát nghệ thuật truyền thống Thanh Hóa trình diễn tại Liên hoan Tuồng và Dân ca kịch toàn quốc - 2019 tại TP Thanh Hóa. Nguồn: Internet.

Kỳ 40

CHƯƠNG III. HOÀNG HÔN CỦA BẮC TRIỀU

I.

Trong cơn tàn cuộc, nội bộ nhà Mạc không thống nhất lại được, mạnh ai nấy làm. Mạc Đôn Nhượng lập Mạc Kính Chỉ, con của Mạc Kính Điển lên ngôi, trong khi đó Mạc Ngọc Liễn lại lập một người con khác của Mạc Kính Điển là Mạc Kính Cung. Vũ An Đế Mạc Toàn thế cô phải chạy theo Mạc Đôn Nhượng và Mạc Kính Chỉ. Mạc Toàn vì thế chỉ lấy tước hiệu là Vũ An Vương. Khắp miền Bắc và miền Đông hàng vạn quân Mạc tiếp tục ra đầu hàng quân Nam Triều. Mùa xuân 1593, Mạc Kính Chỉ tập hợp được 6 vạn quân, lên ngôi ở xã Nam Giản, huyện Chí Linh, Hải Dương, lấy niên hiệu là Bảo Định. Trịnh Tùng sai Nguyễn Thất Lý, Bùi Văn Khuê và Ngô Đình Nga tiến đánh Mạc Kính Chỉ. Các tướng Nam Triều thua trận, Nguyễn Thất Lý tử trận, Ngô Đình Nga trọng thương. Trịnh Tùng sai Hoàng Đình Ái đem 7 vạn quân đánh dẹp. Quân Ái tới Cẩm Giàng. Mạc Kính Chỉ dốc hết quân ra giữ Thanh Lâm, lấy dãy núi Hầm Giang làm chỗ dựa, đắp thêm hào lũy dọc ven sông. Chiến sự giằng co nhau lâu ngày không phân thắng bại, hai bên tướng sĩ không lúc nào được cởi áo giáp. Trịnh Tùng thấy vậy tự dẫn quân qua sông Nhị, đi gấp đến Cẩm Giàng. Trịnh Tùng ra lệnh:

-Tướng quân Hoàng Đình Ái nghe lệnh:

-Dạ.

-Tướng quân đem quân đánh vào hạ lưu sông Thanh Lâm.

-Mạt tướng tuân lệnh.

-Tướng quân Nguyễn Hữu Liêu.

-Có mạt tướng.

-Tướng quân đem quân bao vây chặn cửa rút lui của quân Mạc.

-Mạt tướng tuân lệnh.

-Ta sẽ đánh từ thượng lưu sông ép lại phối hợp với tướng quân Hoàng Đình Ái.

Ngày 9 tháng 1 năm 1593 một trận hợp vây của quân Nam Triều ở Chí Linh, các chiến lũy phòng thủ Thanh Lâm của quân Mạc tan vỡ, quân Mạc đại bại, bị giết 6 vạn người. Triều đình của Mạc Kính Chỉ tháo chạy. Hoàng Đình Ái cho quân truy kích đến thôn Tân Manh, huyện Hoành Bồ, An Quảng (Quảng Ninh) bắt được bọn Vũ An Vương Mạc Toàn, An Sơn Vương Mạc Kính Thành, Hoàn Lương Công Lý Hựu, Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Phu, Mạc Kính Thân, Mạc Kính Tuần đều là con Mạc Kính Điển…tổng cộng hơn 60 người đem chém hoặc buộc thắt cổ chết ở bến Cỏ (Thảo Tân). Mạc Đôn Nhượng (con của Mạc Thái Tông) chạy lên Lạng Sơn, ít lâu sau thì qua đời.

Lão tướng quốc cửu nhà Mạc Nguyễn Quyện bị Trịnh Tùng bắt đưa về Thanh Hóa. Ngày 4-11-1593, Nguyễn Quyện bị giết chết trong ngục ở Vạn Lại-An Trường. Các con là Nguyễn Tín, Thọ Nham Hầu Nguyễn Trù, các con của Phùng Hưng Hầu Nguyễn Miễn (em Nguyễn Quyện) là Phù Hưng hầu Đô Mỹ, Văn Bảng, Nam Dương, An Nghĩa, Nhân Trí chạy theo Mạc Kính Cung lên Cao Bằng. Ái nữ của Nguyễn Quyện là Nguyễn Thị, hoàng hậu nhà Mạc, sau khi Đông Kinh thất thủ không rõ tung tích.

Năm 1593, Mạc Ngọc Liễn Lập con của Mạc Kính Điển là Mạc Kính Cung lên ngôi ở bờ Bắc sông Nhị, lấy niên hiệu Càn Thống. Ngày 24 tháng 4 năm 1593 Trịnh Tùng cầm quân đánh dẹp. Mạc Ngọc Liễn thua rút chạy. Tùng sai các tướng về giữ các phủ Hạ Hồng, Thượng Hồng, Khoái Châu, Thuận An, Từ Sơn, ra lệnh cho dân phiêu tán do chiến tranh nay về quê lập nghiệp.

Năm 1594, Mạc Ngọc Liễn đưa Mạc Kính Cung chạy về An Bắc, chạy sang Tư Minh Trung Quốc. Lúc này Thái Bảo Đà Quốc Công Chưởng Phủ Sự Mạc Ngọc Liễn ốm và qua đời, để lại di chúc cho Mạc Kính Cung là “Thà lánh thân nước ở ngoài chứ đừng mời người Tàu sang hại dân, hại nước”. Mạc Ngọc Liễn là con Nguyễn Kính, đại thần nhà Mạc, được mang quốc tính họ Mạc. Ông là một tướng trung thành với nhà Mạc và có tinh thần yêu nước. Năm 1596, Phan Ngạn tiếp tục đánh dẹp, bắt được Trang Vương Mạc Kính Chương, cháu nội Mạc Kính Điển ở An Quảng và giết chết.

Trịnh Tùng sai sửa sang cung điện ở Đông Kinh, sai Thái phó Dương Quốc Công Nguyễn Hữu Liêu đón xa giá vua Lê Thế Tông đã từ Vạn Lại- An Trường về Tây Đô rồi ra Đông Kinh. Ngày 16 Tháng 5 năm 1593 vua ngự ở điện Càn Nguyên nhận lễ mừng của các quan, đại xá thiên hạ, phong thưởng các tướng Nam Triều có công. 60 năm nhà Lê lại về kinh đô cũ nhưng vị thế thời cuộc không còn như xưa.

Từ năm 1593 đến năm 1594, Nguyễn Hữu Liêu tiếp tục đánh phá và tiêu diệt tàn quân Mạc ở Hải Dương, Thái Nguyên, Lạng Sơn. Do công lao đó nên được phong thưởng: Được thu thuế 4 phủ xứ Sơn Tây, ăn lộc một số làng Đường Hào, Hưng Yên, Ngọc Sơn, Thanh Hóa, La Sơn Thanh Chương, Quỳnh Lưu Nghệ An.

Năm 1595, Trịnh Tùng buộc vua Lê Thế Tông phong cho mình làm Bình An Vương, lập phủ chúa bên ngoài hoàng thành, song song với triều đình của vua Lê. Ở trung ương, nhà Trịnh đã lập ra một bộ máy hành chính riêng, gọi là Ngũ phủ liêu, nắm toàn bộ quyền lực của đất nước, biến vua Lê thành hư vị hoàn toàn. Phủ chúa đứng đầu là chúa Trịnh, dưới chúa có chức quan Tham tụng tương đương tể tướng, dưới Tham tụng là Bồi tụng, ở Đông Kinh có ngũ phủ là 5 cơ quan quân sự hành chính, đứng đầu mỗi phủ là tả, hữu Đô đốc. Đó là Trung quân, Đông quân, Tây quân, Bắc quân, Nam quân. Nhà Trịnh còn đặt ra 6 phiên, chức năng là cơ quan hành pháp như 6 bộ của nhà Lê. Phiên binh nắm quân sự, Phiên hình nắm tư pháp, Phiên hộ nắm dân số nhân khẩu, phiên công nắm xây dựng đường sá, nhà cửa cầu cống, cung điện, công xưởng nhà nước, Phiên lại nắm và bổ nhiệm, thăng giáng, cách chức quan lại, Phiên lễ nắm ngoại giao. Chính quyền địa phương không thay đổi cấu trúc như thời Lê Thánh Tông. Cả nước chia thành các đơn vị hành chính là Trấn, phủ, huyện, xã và làng ở miền xuôi, bản ở miền núi. Chính quyền trung ương ngũ phủ liêu và phiên, chính quyền địa phương các cấp đều dặt dưới quyền của chúa Trịnh. Chúa Trịnh nắm hết thực quyền của đất nước. Vua Lê thành hư vị, chỉ còn được 5000 quân túc vệ, 7 con voi, 20 thuyền rồng, thu thuế 1000 xã làm bổng lộc.

Ngày 28 tháng 3 năm 1597, vua Lê Thế Tông thân đốc xuất Hữu tướng Hoàng Đình Ái, Thái úy Nguyễn Hoàng (từ Thuận Hóa ra), Nguyễn Hữu Liêu cùng tả hữu đô đốc 8 người đem voi và 5 vạn quân lên trấn Nam Quan giao thiệp với nhà Minh. Hoàng Đình Ái tâu:

-Tình hình nhà Minh hiện nay không thể đánh được nước ta, chỉ có thể là diễu võ dương oai để ta sợ, thực hiện mưu đồ mà xưa kia tổ tiên của họ thất bại, Xin Đô Tướng Tiết chế cho lệnh được tùy nghi đối phó.

Trịnh Tùng nói:

-Hữu tướng nói phải lắm.

Trịnh Tùng liền trao cho Hoàng Đính Ái thanh gươm “An Quốc”.

Đại diện nhà Minh là Vương Kiến Lập trông thấy quân Lê-Trịnh oai hùng dũng mãnh, khiếp sợ, từ bỏ dã tâm bắt nạt, đe dọa. Cuộc Hội Khám do đó đó tiến hành đúng nghi lễ ngoại giao. Nhà Minh buộc phải công nhận nhà Lê là triều đại cai trị Đại Việt.

Tháng 3 năm 1597, do công lao to lớn với Nam Triều, lão tướng Nguyễn Hữu Liêu được phong Thái úy Dương Quốc Công. Tháng 5 năm 1597 Nguyễn Hữu Liêu mất, thọ 66 tuổi. Có đền thờ ở Đông Khe Tây Tựu, Từ Liêm.

Ngày 3 tháng 1 Năm 1598, Hoàng Đình Ái đem quân đánh Mạc ở Lạng Sơn, bắt được Mạc Kính Luân, thu 35 chiến mã và nhiều khí giới. Tháng 6 năm đó, Ái sai Lâm Quận Công Trần Phúc đem 1000 quân đến châu Thoát Lãng, bắt được con trai Mạc Kính Cung khi đó 12 tuổi, giải về kinh giết bằng thắt cổ. Mạc Kính Cung chạy sang Long Châu Trung Quốc. Tháng 8 năm 1598, Mạc Kính Dụng họp quân ở huyện An Bắc, xưng Uy Vương, muốn giết viên Thổ quan là Phú Lương Hầu để cướp đất đai. Phú Lương Hầu giả hàng, dụ Kính Dụng vào núi, giết hết tay chân rồi báo cho Trịnh Tùng. Trịnh Tùng bắt Kính Dụng về kinh thắt cổ chết. Mạc Kính Cung chạy về cố thủ Cao Bằng.

(Còn nữa)

CVL

PGS TS Cao Văn Liên

Nguồn Văn Hiến: http://vanhien.vn/news/viet-nam-dien-nghia-tap-iv--ky-40-78116