VCCI kiến nghị đơn giản hóa xác định trị giá hải quan cho hàng hóa không chịu thuế

Nhiều loại hàng hóa hiện có thuế suất xuất khẩu, nhập khẩu 0%, nên việc xác định trị giá hải quan chỉ còn ý nghĩa thống kê. Do đó, có thể đơn giản hóa điều kiện và thủ tục xác định trị giá hải quan đối với những hàng hóa này để giảm chi phí và rủi ro cho doanh nghiệp.

Công chức Cục Hải quan Đồng Nai kiểm tra hàng hóa XNK của doanh nghiệp. Ảnh: N.H

Công chức Cục Hải quan Đồng Nai kiểm tra hàng hóa XNK của doanh nghiệp. Ảnh: N.H

Đó là một trong những nội dung được nêu lên trong văn bản góp ý về Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 39/2015/TT-BTC quy định về trị giá hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu vừa được Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) gửi Tổng cục Hải quan.

Theo đó, việc xác định trị giá hải quan có ý nghĩa rất quan trọng để xác định nghĩa vụ nộp thuế xuất nhập khẩu của hàng hóa. Tuy nhiên, rất nhiều loại hàng hóa hiện nay có mức thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở mức 0% hoặc được miễn thuế. Đối với những hàng hóa này, việc xác định trị giá hải quan chỉ còn có ý nghĩa thống kê, chứ không liên quan đến nghĩa vụ ngân sách. Do đó, hoàn toàn có thể đơn giản hóa các quy định về điều kiện và thủ tục xác định trị giá hải quan đối với hàng hóa không chịu thuế xuất nhập khẩu, giúp giảm chi phí và rủi ro cho doanh nghiệp.

Hiện nay, các quy định pháp luật vẫn chưa thể hiện sự phân biệt này dù trên thực tế các cơ quan hải quan cũng ít khi kiểm tra, xác định lại trị giá hải quan trong các trường hợp như vậy. Tuy nhiên, do không có quy định rõ ràng nên một số doanh nghiệp xuất nhập khẩu hàng hóa không chịu thuế nhưng vẫn phải làm đầy đủ các biện pháp xác định, điều chỉnh trị giá hải quan vì lo ngại bị phạt khi thực hiện không đầy đủ.

Do đó, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu điều chỉnh quy định theo hướng đơn giản hóa điều kiện và thủ tục xác định trị giá hải quan đối với hàng hóa không chịu thuế xuất nhập khẩu. Ví dụ như được áp dụng phương pháp trị giá giao dịch mà không cần đáp ứng đủ cả 4 điều kiện tại Điều 6.3, bao gồm người mua không bị hạn chế quyền định đoạt hoặc sử dụng hàng hóa sau khi nhập khẩu; giá cả hoặc việc bán hàng không phụ thuộc vào những điều kiện hay các khoản thanh toán mà vì chúng không xác định được trị giá của hàng hóa cần xác định trị giá hải quan; sau khi bán lại, chuyển nhượng hoặc sử dụng hàng hóa nhập khẩu người mua không phải trả thêm bất kỳ khoản tiền nào từ số tiền thu được do việc định đoạt hàng hóa nhập khẩu mang lại; người mua và người bán không có mối quan hệ đặc biệt hoặc nếu có thì mối quan hệ đặc biệt đó không ảnh hưởng đến trị giá giao dịch.

VCCI cũng đề xuất, đối với hàng xuất khẩu, chỉ cần khai báo giá trị giao dịch thực tế mà không cần điều chỉnh đúng về giá trị cửa khẩu xuất.

Cho doanh nghiệp tự kê khai phần giá trị phần mềm đi kèm hàng hóa

Về việc xác định trị giá hải quan đối với phần mềm đi kèm hàng hóa, VCCI cho rằng, hiện việc xác định trị giá hải quan đối với hàng hóa có phần mềm đi kèm đang gặp nhiều bất cập. Có trường hợp phần giá trị của phần mềm được cộng luôn vào giá trị vật lý của hàng hóa và trở thành trị giá hải quan của hàng hóa đó, có trường hợp phần giá trị phần mềm lại không được ghi nhận trong giá trị hải quan. Việc xác định chính xác phần giá trị phần mềm nào thuộc về hàng hóa, và phần giá trị dịch vụ nào không thuộc về hàng hóa hiện nay rất khó khăn do không có quy định rõ ràng.

Đối với phần mềm, trong bản thuyết minh của dự thảo, cơ quan soạn thảo cho rằng có trường hợp doanh nghiệp có “phần mềm không cùng chuyến với máy móc thiết bị, từ đó có khoảng hở dễ bị doanh nghiệp lợi dụng để chuyển giá vào phần mềm nhập khẩu riêng nhằm giảm trị giá của máy móc thiết bị, giảm số tiền thuế phải nộp”.

Theo VCCI, nhận định này chưa toàn diện, vì trong trường hợp đó, chi phí mà doanh nghiệp trong nước trả cho việc nhập khẩu phần mềm sẽ được coi là doanh thu của nhà thầu nước ngoài và doanh nghiệp trong nước sẽ phải kê khai và nộp thuế nhà thầu cho khoản này. Nói cách khác, thay vì phải nộp thuế nhập khẩu doanh nghiệp sẽ phải nộp thuế nhà thầu cho phần giá trị của phần mềm. Vấn đề chuyển giá chỉ đặt ra khi có sự chênh lệch thuế suất giữa thuế nhập khẩu đối với máy móc và thuế nhà thầu đối với phần mềm.

VCCI cho biết, trong tài liệu thuyết minh dự thảo, cơ quan soạn thảo cũng đã thừa nhận vấn đề rất khó khi phân loại đâu là phần mềm ứng dụng thông thường và đâu là phần mềm liên quan đến máy móc, thiết bị. Khi trao đổi trực tiếp, cơ quan soạn thảo giải thích khái niệm phần mềm liên quan đến máy móc là những phần mềm mà không có nó thì máy móc không sử dụng được. Tuy nhiên, với sự phát triển rất nhanh của công nghệ thông tin ngày nay, rất khó để có thể đưa ra một quy định bao quát được tất cả các trường hợp.

Với những lý do đó, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu phương án cho phép doanh nghiệp tự kê khai phần giá trị phần mềm và chịu nghĩa vụ thuế tương ứng, nếu doanh nghiệp kê khai vào trị giá hải quan thì phải nộp thuế nhập khẩu, nếu kê khai vào chi phí dịch vụ qua biên giới thì phải nộp thuế nhà thầu.

Khải Kỳ

Nguồn Hải Quan: https://baohaiquan.vn/vcci-kien-nghi-don-gian-hoa-xac-dinh-tri-gia-hai-quan-cho-hang-hoa-khong-chiu-thue-106854.html