Vai trò của thủy quân Việt Nam trong lịch sử dân tộc (Kỳ 2)

Trân trọng giới thiệu tiếp bài viết của PGS TS Cao Văn Liên về 'Vai trò của thủy quân việt Nam trong lịch sử dân tộc'

CHƯƠNG II

VAI TRÒ CỦA THỦY QUÂN VIỆT NAMTRONG CUỘC ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC KHỎI ÁCH ĐÔ HỘ CỦA PHONG KIẾN PHƯƠNG BẮC

Triệu Quang Phục (548 - 571) là người kế tục sự nghiệp của Lý Nam Đế khôi phục nhà nước Van Xuân, Theo sử sách, vùng “đất hiểm” đó chính là đầm Dạ Trạch (thuộc Khoái Châu, Hưng Yên ngày nay) với kế sách dụng binh hết sức mưu lược và sáng tạo, bằng chiến thuật đánh lâu dài, đánh du kích đã dẹp tan quân Lương xâm lược. Nguồn: Internet.

Sau nhiều lần bị quân dân Âu Lạc đánh bại, khoảng năm 179 trước công nguyên, Triệu Đà dùng mưu mô xảo quyệt kết hợp với quân sự mới thôn tính được. Đến năm 111 trước công nguyên, nhà Hán chinh phục được Nam Việt và Âu Lạc, tiếp theo là các triều đại Ngô, Tấn, Lương, Tùy, Đường kế tiếp thống trị nước ta hơn 1.000 năm. 1.000 năm mất nước, mất độc lập tự chủ là 1.000 năm nhân dân ta bị giết hại, bị áp bức, bóc lột đến tận xương tủy. Nền kinh tế bị kìm hãm và bị phá hoại nghiêm trọng. Bọn thống trị lại ra sức thi hành chính sách đồng hóa văn hóa để hòng tiêu diệt văn hóa của dân tộc ta. Bị bóc lột tàn bạo về kinh tế, bị áp bức nặng nề về tinh thần là kết quả của một dân tộc mất nước. Đánh đuổi bọn phong kiến phương Bắc, giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ cấp thiết nhất của lịch sử Việt Nam trong thời kỳ đó. Giai cấp phong kiến Việt Nam lĩnh trách nhiệm đứng ra tổ chức lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng đất nước.

Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó, những nhà lãnh đạo phong trào bấy giờ hiểu rằng phải có lực lượng vũ trang mới có thể tiến hành chiến tranh đập tan bộ máy bạo lực, ách thống trị của kẻ thù. Kinh nghiệm thất bại của Hai Bà Trưng vào những năm 40 đã chỉ rõ rằng trong khi xây dựng lực lượng vũ trang cần chú ý xây dựng cả lực lượng bộ binh và lực lượng thủy binh do điều kiện địa lý của nước ta qui định.

Trong cuộc kháng chiến giữ nước chống quân Lương xâm lược, tháng 10 năm 546, sau khi bị thất bại ở thành Tô Lịch và thành Gia Ninh, được nhân dân Khuất Lão (Vĩnh Phúc) ủng hộ, Lý Nam Đế kéo quân ra vùng hồ Điển Triệt (Đầm Vạc, Vĩnh Phúc) và đã ra sức xây dựng lực lượng thủy binh để phản công, giành lại độc lập cho đất nước. Lý Nam Đế đã ra lệnh đóng rất nhiều chiến thuyền. Thuyền đậu đầy mặt hồ Điển Triệt làm cho quân Lương rất sợ hãi, dao động.

Khi Lý Nam Đế mất, giao binh quyền cho Triệu Quang Phục. Ông cầm đầu một cánh quân rút về lập căn cứ ở Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) chờ thời cơ chống giặc. Đầm Dạ Trạch là một vùng đồng lầy rất rộng, cây cỏ um tùm, ở giữa là bãi đất nổi có thể ở được, đường đi vào bãi rất kín đáo, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc lướt trên đám cỏ nước thì mới tới được. Triệu Quang Phục đã dùng thủy quân hoạt động du kích, tiêu hao lực lượng địch, bồi dưỡng lực lượng nghĩa quân ngày càng mạnh, tích lũy nhiều lương thực, bảo đảm chiến đấu lâu dài. Đến năm 550 nhà Lương có loạn to, tướng giặc Trần Bá Tiêu kéo quân về nước, chỉ để Dương Sàn ở lại. Chớp thời cơ đó, Triệu Quang Phục phản công, giết tướng Dương Sàn, chiếm Long Biên, giành độc lập.

Tiếp theo, năm 772 Mai Thúc Loan khởi nghĩa chống ách thống trị của nhà Đường ở Hoan Châu (Nghệ An- Hà Tĩnh). Ông lợi dụng địa thế vùng Sa Nam xây dựng căn cứ chống giặc. Cũng giống như căn cứ của Triệu Quang Phục, căn cứ của Mai Thúc Loan mà trung tâm là thành Vạn An nổi tiếng, vừa là căn cứ bộ binh và căn cứ thủy quân do việc lợi dụng địa hình sông núi để xây dựng. Dọc bờ sông Lam ở khúc hiểm sâu, nghĩa quân đắp một chiến lũy dài 1000m, đó là thành Vạn An có Rú Đụn (Hùng Sơn) làm chỗ dựa, phía trong núi là dải thung lũng rất rộng làm nơi chứa lương thực, vũ khí, phía ngoài ở sườn núi là đồn trại của bộ binh. Chung quanh căn cứ là sông Lam, bức hào thiên nhiên bảo vệ thành, đồng thời cũng là khu vực của thủy quân hoạt động. Trong lực lượng vũ trang, Mai Thúc Loan đã xây dựng bộ binh và đồng thời ra sức xây dựng lực lượng thủy quân để bước vào chiến đấu.

Nhìn lại quá trình xây dựng lực lượng để tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc, những vị anh hùng, ngoài xây dựng bộ binh đã chú trọng xây dựng lực lượng thủy quân. Trong khi xây dựng căn cứ, họ thường dựa vào địa thế núi sông kết hợp xây dựng căn cứ lục quân và căn cứ thủy quân, kế thừa truyền thống Cổ Loa.

Vai trò và tác dụng của thủy quân trong giai đoạn này do tương quan lực lượng không có lợi cho ta nên thường áp dụng lối đánh du kích, tập kích để tiêu hao lực lượng địch, góp phần chuyển hóa tương quan lực lượng, đợi cơ hội phản công như thủy quân của Triệu Quang Phục và đã thành công. Nhìn chung, đó cũng chỉ là những mầm mống đầu tiên và là sản phẩm của các cuộc khởi nghĩa cho nên khi khởi nghĩa thất bại thì lực lượng vũ trang tan rã. Nhưng dù có tạm thời thất bại thì các cuộc khởi nghĩa càng bồi đắp cho ý chí dân tộc trưởng thành, để lại nhiều kinh nghiệm quý báu trong việc xây dựng lực lượng vũ trang cho cuộc đấu tranh tiếp theo sau. Thủy quân thời kỳ Âu Lạc, Lý Bí, Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan là tiền đề cơ sở cho thủy quân Bạch Đằng năm 398. Thủy quân ở hồ Điển Triệt, Đầm Dạ Trạch, căn cứ Vạn An là những cuộc tổng diễn tập để tiến tới trận thủy chiến Bạch Đằng nổi tiếng. Không có thủy quân thời Âu Lạc, Hồ Điển Triệt, Dạ Trạch, Vạn An thì không có trận đại thắng Bạch Đằng. Đó là ý nghĩa và tác dụng to lớn trong quá trình phát triển của thủy quân ta gắn với lịch sử thăng trầm của dân tộc.

Như vậy, cuộc đấu tranh bền bỉ dẻo dai của nhân dân ta trong 1.000 năm là động lực mạnh mẽ thúc đẩy lịch sử dân tộc tiến lên dù bị giặc ngoại xâm đàn áp. Đến thế kỷ thứ 10 xã hội ta đã có nhiều biến chuyển lớn lao. Đồ sắt phát triển mạnh làm cho kinh tế phong kiến nội tộc dù bị phong kiến ngoại xâm kìm hãm vẫn phát triển mạnh mẽ. Đó là cơ sở vững chắc cho giai cấp phong kiến Việt Nam trưởng thành về ý thức chính trị và họ đòi hỏi phải lật đổ ách thống trị của phong kiến phương Bắc, xác lập sự thống trị của phong kiến Việt Nam. Quyền lợi của giai cấp phong kiến khi đó phù hợp với quyền lợi dân tộc và họ sẽ là giai cấp đứng ra đảm nhận sứ mệnh lịch sử đó. Âm mưu đồng hóa của kẻ thù hoàn toàn thất bại, tinh hoa văn hóa của dân tộc được bảo tồn và phát triển. Trong quá trình đấu tranh ,dân tộc ta trưởng thành về mọi mặt chính trị, văn hóa, quân sự. Sức sống mãnh liệt của dân tộc ta là ở đó. Sức mạnh đó tạo tiền đề vật chất, tinh thần cho công cuộc giành độc lập ở thế kỷ thứ 10.

(Còn nữa)

CVL

PGS TS Cao Văn Liên

Nguồn Văn Hiến: http://vanhien.vn/news/vai-tro-cua-thuy-quan-viet-nam-trong-lich-su-dan-toc-ky-2-81710