Vai trò của thủy quân Việt Nam trong lịch sử dân tộc (Kỳ 15)

Trân trọng giới thiệu tiếp bài viết của PGS TS Cao Văn Liên về 'Vai trò của thủy quân việt Nam trong lịch sử dân tộc'.'

Tranh minh họa> Phối hợp giữa bộ binh và thủy chiến đã làm nên những chiến thắng của Quang Trung. Nguồn: Internet.

KY15

V. Thủy quân Tây Sơn trong chiến dịch đại phá quân Mãn Thanh xâm lược 1789.

Cũng như thủy quân Việt Nam qua các triều đại, thủy quân Tây Sơn còn có vai trò và tác dụng lớn lao trong sự nghiệp chống xâm lược bảo vệ tổ quốc. Với chiến thắng oanh liệt Rạch Gầm- Xoài Mút năm 1785, thủy quân Tây Sơn đã đập tan tành mưu đồ xâm lược của bọn phong kiến Xiêm, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ phía Nam, giữ vững độc lập của đất nước. Tới mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789, quân đội Tây Sơn dưới sự chỉ huy của vị tướng thiên tài Nguyễn Huệ đã lập nên chiến công vĩ đại, hiển hách vào bậc nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, đó là chiến dịch đại phá quân Thanh. Chỉ trong 5 ngày 5 đêm 29 vạn quân Thanh bị quét sạch khỏi đất nước. Với chiến thắng huy hoàng đó, quân đội Tây Sơn đã đè bẹp ý chí xâm lược của triều đình Mãn Thanh, đã kết thúc vĩnh viễn sự xâm lược của phong kiến phương Bắc đối với nước ta. Trong chiến dịch này, thủy quân Tây Sơn đã đóng góp vào thắng lợi chung. Vị tổng chỉ huy quân đội đã trao cho hai đạo thủy quân nhiệm vụ tiến sâu vào sau lưng địch thực hiện bao, vu hồi chiến dịch, phối hợp với quân chủ lực, đồng thời phục kích truy kích tiêu diệt tàn binh địch làm cho chúng khiếp sợ, đè bẹp hẳn ý chí xâm lược.

Thực hiện mệnh lệnh đó, đạo thủy quân do đô đốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy đã tiến vào sông Lục Đầu, tiêu diệt quân Cần Vương của Lê Chiêu Thống ở Hải Dương, sau đó đã uy hiếp cạnh sườn phía đông của Tôn Sĩ Nghị đóng trên bờ sông Hồng, tiếp ứng cho đạo quân chủ lực và các đạo quân khác đánh vào Thăng Long. Đạo thủy quân thứ hai do đô đốc Lộc chỉ huy đã vượt biển và đổ bộ lên Kinh Bắc đóng giữ tất cả các đường đi lên ải Nam Quan để tiêu diệt tàn binh của Tôn Sĩ Nghị. Đạo thủy quân này từ phục kích chuyển sang truy kích, tiêu diệt hầu hết tàn binh địch từ Thăng Long chạy về, đánh chiếm 18 kho lương thực của quân Thanh đặt từ ải Nam Quan đến Thăng Long; đuổi đánh bọn Tôn Sĩ Nghị và Lê Chiêu Thống, làm cho tên tướng xâm lược và tên vua bán nước vô cùng khốn đốn. Tôn Sĩ Nghị nhịn đói, nhịn khát, phải vứt hết ấn tín, sắc thư và các đồ mang trong mình mới trốn thoát. Thủy quân Tây Sơn đã thọc sâu vào vùng sau lưng địch, truy kích tiêu diệt chúng, làm cho chúng liên tục bị đánh tơi tả, liên tục kinh hoàng khiếp sợ, góp phần hoàn toàn đè bẹp ý chí xâm lược của triều đình Mãn Thanh. Thủy quân Tây Sơn đã góp vào chiến công hiển hách của dân tộc.

Qua chiến dịch đại phá quân Thanh, thủy quân Tây Sơn đã tỏ ra là những chiến sĩ có chiến thuật toàn diện, vừa giỏi thủy chiến, vừa giỏi công thành và còn giỏi cả tác chiến trên bộ, ngay cả trên miền núi với chiến thuật phục kích truy kích. Dù là chủ lực đảm đương hướng tấn công chủ yếu hoặc là đạo quân hỗ trợ đảm đương hướng phụ, thủy quân Tây Sơn đều hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Thủy quân Tây Sơn đã kế thừa và phát huy cao độ nhất truyền thống của thủy quân Đại Việt anh hùng trước đó.

KẾT LUẬN

Cho tới bây giờ, quá trình phát triển về tổ chức và về trang bị của thủy quân Việt Nam trong thời kỳ cổ-trung đại hãy còn là vấn đề hầu như hoàn toàn mới mẻ trong khoa học. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể biết được rằng, đi đôi với việc phát triển kinh tế, nhất là trong lĩnh vực ngoại thương buôn bán với nước ngoài, kỹ thuật đóng tàu của cha ông ta có từ rất sớm và ngày càng hoàn thiện, tinh xảo, không kém thuyền tàu của các nước văn minh trên thế giới. Năm 809, một viên quan nhà Đường là Trương Châu ở nước ta đã sai thợ đóng 400 chiến thuyền có bịt "mông đồng", mỗi chiếc thuyền chiến như vậy có tới 32 tay chèo và 25 lính. Thủy quân dưới thời Ngô Quyền, Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần đều là một binh chủng hùng mạnh, trang bị tốt mới đủ sức đè bẹp thủy quân của Nam Hán, Tống, Nguyên. Cho đến khi nhà Hồ nắm chính quyền, Hồ Quý Ly ra sức xây dựng một quân đội hùng mạnh. Nhiều xưởng đóng chiến thuyền, đúc vũ khí được lập. Chiến thuyền đời Hồ là một loại chiến thuyền lớn đóng bằng đinh sắt, phần trên có sàn đi lại để tiện việc chiến đấu, phía dưới phải hai chiến sĩ mới chèo nổi một mái chèo. Đó là một bước phát triển trong kỹ thuật đóng tàu, sức trọng tải và trang bị cho thủy quân. Thủy quân của chúa Nguyễn vào thế kỷ thứ 17 cũng là một lực lượng khá mạnh, bằng chứng là vào tháng 7 năm 1643 trong lần liên minh lần thứ ba giữa tư bản Hà Lan và chúa Trịnh để đánh Chúa Nguyễn, hạm đội Hà Lan đã bị chiến thuyền quân Nguyễn đánh bại ở vùng biển Thuận An (Huế) sau một trận hải chiến. Điều đó chứng tỏ thủy quân Việt Nam vào thế kỷ thứ 17 trang bị không kém một số nước tư bản Âu châu. Thủy quân Việt Nam khi đó đã có hai biến đổi quan trọng, bên cạnh thuyền chèo còn có thuyền buồm trọng tải rất lớn, có đặt đại bác. Loại chiến thuyền đó không khác thuyền buồm của phần lớn các nước Âu châu.

Người đã làm cuộc cách mạng về mọi mặt trong lực lượng thủy quân Việt Nam là nhà tổ chức thiên tài Nguyễn Huệ. Ông đã nhận thức rõ tính chất, đặc điểm địa lý của nước ta có nhiều sông ngòi, biển rộng nên đã thấy rõ tầm quan trọng của thủy quân đối với sự nghiệp đấu tranh vũ trang chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc. Nguyễn Huệ đã ra sức xây dựng một quân đội hùng mạnh có nhiều quân binh chủng, trong đó ông đã dồn nhiều sức lực để xây dựng lực lượng thủy quân mạnh mẽ. Nguyễn Huệ biết rằng thủy quân Đại Việt không chỉ tác chiến trên mặt biển rộng lớn mà còn phải tác chiến trên sông ở sâu trong nội địa. Để thích hợp với từng điều kiện của chiến trường, Nguyễn Huệ cho đóng nhiều loại chiến thuyền, loại nhỏ, loại vừa và loại lớn. Chiến thuyền loại lớn của thủy quân Tây Sơn có thể chở được voi chiến hoặc có từ 600 đến 700 lính và đặt được hàng chục đại bác. Bên cạnh những chiến thuyền tác chiến, Nguyễn Huệ đã tổ chức và đóng những hạm đội vận tải bộ binh, lương thực, vũ khí. Điều đó đã giúp cho tốc độ hành quân của lục quân Tây Sơn rất cơ động, nhanh chóng và giúp cho Nguyễn Huệ giải quyết được vấn đề lương thực hậu cần cho quân đội trong các chiến dịch.

Đồng thời với việc cải tiến tổ chức, kỹ thuật chiến thuyền, Nguyễn Huệ còn ra sức đẩy mạnh trang bị những loại vũ khí tối tân nhất mà trong điều kiện vật chất lúc bấy giờ cho phép. Khoảng thế kỷ 15-16 trở về trước, vũ khí của thủy quân gồm giáo mác, cung nỏ và những phương tiện hỏa công - dùng lửa để dốt cháy chiến thuyền địch một cách lan tràn là một chiến thuật chiến đấu có hiệu suất cao của thủy quân Đại Việt. Vào cuối thế kỷ 18, De la Bissachéru, một giáo sĩ Pháp ở Việt Nam lúc đó đã nhận định rằng phép đánh hỏa công đã làm cho thủy quân Đại Việt thời đó rất đáng sợ. Theo ông ta thì hỏa công của thủy quân là một loại tên lửa bằng cánh tay, lửa hỏa công rất mạnh có thể đốt cháy mọi thứ tàu thuyền. Trên cơ sở đó thủy quân Tây Sơn bên cạnh các loại vũ khí khác còn có một loại vũ khí đặc biệt là hỏa hổ. Hỏa hổ của thủy quân Tây Sơn là một hỏa lực khủng khiếp đối với kẻ thù.

Sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã khai sinh ra thuốc nổ và đó là nguyên nhân ra đời của các loại súng và đại bác. Thế kỷ 15-16, nước ta đã có đại bác nhưng tác dụng còn kém, trọng lượng nặng, số lượng ít và chưa thành một binh chủng độc lập. Trong thời nhà Hồ, Hồ Nguyên Trừng đã chế ra đại bác thần cơ với nhiều cỡ khác nhau. Đến thế kỷ thứ 17, pháo binh đã giữ một vai trò quan trọng trong phòng ngự thành lũy và trong thủy chiến. So với các quân đội đương thời, quân đội Tây Sơn có nhiều đại bác nhất và có đủ các loại nặng nhẹ khác nhau. Nguyễn Huệ đã đưa loại vũ khí có uy lực lợi hại này xuống chiến thuyền và thay đổi hỏa lực của thủy quân. Theo báo cáo của Bá Đa Lộc với hoàng đế Pháp tại Pari ngày 6-5-1787, thì trong những chiến dịch đánh Gia Định, thủy quân Tây Sơn có đặt đại bác trên chiến thuyền. Tới những chiến dịch tiến công ra Bắc, thủy quân Tây Sơn được trang bị khá nhiều đại bác. Với sự cố gắng, nỗ lực phi thường như vậy, cuối thời Quang Trung, thủy quân Tây Sơn đã đạt đến sự hùng mạnh chưa từng có, chiến thuyền đủ các loại. Loại chiến thuyền lớn trang bị 60 đại bác 700 lính, loại vừa 50 đại bác và 500 chiến sĩ, loại nhỏ đặt 16 đại bác và 200 lính, một loại nhỏ nữa trang bị 1 đại bác loại lớn hoặc loại vừa và có từ 50, 70 đến 150 lính[1]. Se nhô, một sĩ quan hải quân Pháp, từng giúp Nguyễn Ánh tác chiến với thủy quân Tây Sơn đã viết: "Trước khi nhìn thấy thủy quân của địch, tôi rất khinh thường, nhưng tôi bảo đảm với các anh rằng đó là sai lầm. Họ có những thuyền chiến mang 50 và 60 đại bác lớn"[2]. Đặc biệt trong khi đưa những vũ khí mới đó vào trang bị cho thủy quân, Nguyễn Huệ vẫn giữ lại loại vũ khí lợi hại từ lâu là hỏa hổ kết hợp đã làm cho hỏa lực của thủy quân Tây Sơn thêm hoàn thiện mạnh mẽ. Đại bác giúp cho thủy quân Tây Sơn đánh địch từ xa, hỏa hổ giúp cho thủy quân Tây Sơn tiêu diệt thủy quân địch khi tiếp cận giáp lá cà. Với một lực lượng thủy quân như vậy, Nguyễn Huệ đã đánh tan thủy quân Trịnh, Nguyễn, Xiêm trong nhiều trận thủy chiến ác liệt .

Mở rộng và tăng cường lực lượng thủy quân, Quang Trung đã nâng thủy quân lên một địa vị rất cao, địa vị của một quân chủng chiến lược. Từ thời Ngô Quyền cho đến trước thời Quang Trung, thủy quân chỉ là một binh chủng, tổ chức của nó chưa phức tạp, chưa đòi hỏi nhiều binh chủng khác phải phục vụ cho nó. Bản thân binh chủng đó mang tính chất chiến thuật. Nhiều khi thủy quân chỉ hoàn thành những nhiệm vụ chiến thuật như chở bộ binh vượt sông biển, trợ lực cho bộ binh diệt địch, làm một cánh vu hồi. Khi thủy quân mang tính chất chiến lược là lúc thủy quân đảm đương trách nhiệm tiêu diệt thủy binh chủ lực của địch bằng những trận quyết chiến chiến lược có ý nghĩa quyết định cục diện chiến tranh. Nhìn chung, trong thời kỳ đó, tính chất chiến thuật của thủy quân là chủ yếu. Công lao to lớn của Nguyễn Huệ là phát triển một cách tương đối nhịp nhàng các binh chủng và đưa thủy quân lên hàng quân chủng chiến lược, đó là việc làm có ý nghĩa cách mạng trong việc tổ chức quân đội ở nước ta thế kỷ 18. Trong thủy quân Tây Sơn hình thành nhiều binh chủng, bao gồm đội thuyền chiến tác chiến trên sông, đội thuyền chiến vừa tác chiến trên sông vừa tác chiến trên biển gần, đội thuyền chiến tác chiến trên biển xa. Ngoài các đội thuyền chiến, thủy quân Tây Sơn còn có một đội thuyền vận tải lương thực vũ khí quân trang và đội thủy binh chuyên dùng để tác chiến trên bộ. Chủ lực của thủy quân Tây Sơn là đội thuyền chiến lớn đi biển có hỏa lực rất mạnh chở theo một cơ hoặc một đội thủy binh có thể tác chiến giỏi cả trên bộ. Như vậy, mỗi thuyền chiến của thủy quân Tây Sơn với sức trọng tải lớn, với hỏa lực mạnh, với một đội thủy binh tác chiến mạnh đã trở thành những đơn vị chiến dịch. Thủy quân Tây Sơn đã thành một quân chủng chiến lược, giữ một vai trò lớn lao, có khi là lực lượng chủ yếu quyết định trong các chiến dịch. Nguyễn Huệ đã sử dụng lực lượng thủy quân hùng mạnh đó để thực hiện đánh vu hồi sâu vào sau lưng địch, làm nhiệm vụ tiên phong của một chiến dịch, hoặc dùng thủy quân là lực lượng chủ yếu để thực hiện chiến dịch. Nguyễn Huệ đã thấy rõ vai trò lớn lao của thủy quân và thực tế các trận chiến đấu oanh liệt đã chứng tỏ vai trò đó. Cho nên từ sau chiến dịch Phú Xuân cho đến cuối đời, Nguyễn Huệ đã ra sức xây dựng thủy quân thành một quân chủng lớn mang đầy đủ yếu tố của một quân chủng chiến lược. Nguyễn Huệ đã thành công trong việc xây dựng thủy quân có nhiều binh chủng. Đưa thủy quân lên hàng quân chủng, đưa quân đội từ một quân chủng thành hai quân chủng. Nguyễn Huệ là một nhà quân sự đầu tiên đã thực hiện một bước tiến lớn lao, một bước nhảy vọt trong tổ chức quân đội. Đúng như Ăngghen đã nói: Quân đội thay đổi đưa đến sự thay đổi về chiến thuật tác chiến. Trên cơ sở xây dựng và phát triển quân đội, Nguyễn Huệ đã đưa nghệ thuật quân sự Việt Nam phát triển lên một giai đoạn mới.

(Còn nữa)

CVL

----------------

[1] Thư của Ba Rysi ngày 11-4-1801 dẫn theo Nguyễn Quang Bích-Phạm Ngọc Phụng-Tìm hiểu thiên tài quân sự Nguyễn Huệ.NXB Quân đội Nhân dân. Hà Nội, 1971 trang 352.

[2] Se nhô (JB Chaigneau) THTTQSNH trang 352.

PGS TS Cao Văn Liên

Nguồn Văn Hiến: http://vanhien.vn/news/vai-tro-cua-thuy-quan-viet-nam-trong-lich-su-dan-toc-ky-15-81947