Vài nét tiểu sử cụ Nguyễn Kiều
Tiến sĩ Nguyễn Kiều không chỉ là một quan chức cao cấp của nhà Lê; cụ còn một tác gia lớn, xứng đáng là danh nhân nổi tiếng trong lịch sử văn học, văn hóa Việt Nam.
Về sắc phong:
- Sắc Cẩn sự Tá lang- Phụng sự Đại Nguyên soái, Tổng quốc chính Sự thượng An Vương (Trịnh Cương). Ông được giữ chức Cẩn sự Tá lang Hiệu úy Viện Hàn lâm (Ngày 29 tháng 10 năm Vịnh Thịnh thứ 11 -1715).
- Sắc Cẩn sự tá lang Hiệu úy Viện Hàn lâm, hạ ban Nguyễn Kiều đã nhậm chức rất xứng đáng với phụng chỉ của Đại Nguyên soái Tổng quốc chính sư Thượng thượng phụ, Uy minh Nhân công Thánh đức An Vương (Trịnh Cương) lại có triều thần đề nghị thăng chức Hiệu lý. Ông được giữ chức Cẩn sự lang Hiệu lý, hạ liên Viện Hàn lâm. (Ngày 16 tháng 6 năm Vĩnh Thịnh thứ 16 -1720)
- Bài vị ghi rõ vị thần chủ thờ là cụ Nguyễn Kiều, đã được vua Lê ban cấp học vị tiến sĩ khoa thi Ất Mùi (1715 ), từng trải Chánh sứ, Phó Đô Ngự sử, Cẩm Xuyên hầu, Nguyễn công, tên húy là Kiều, tên tự là Hạo Hiên tiên sinh.(cháu là Nguyễn Lân phụng thờ).
Tiến sĩ Nguyễn Kiều không chỉ là một quan chức cao cấp của nhà Lê; cụ còn một tác gia lớn, xứng đáng là danh nhân nổi tiếng trong lịch sử văn học, văn hóa Việt Nam. Các tác phẩm nổi tiếng của cụ, gồm các bài thơ làm trong khi đi sứ và đảm nhiệm các chức vụ, thực thi nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân ở nhiều tỉnh miền Bắc và miền Trung làm ăn và xây dựng cuộc sống. Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục ghi Nguyễn Kiều và Nguyễn Tông Quai có chung tập Sứ Hoa tùng vịnh, và tác phẩm Hạo Hiên thi là tập sang tác riêng của cụ.
Ngoài ra, cụ còn viết một số bài Tựa sách Chu Dịch quốc âm của Đặng Thái Bàng. Trong tập Sử văn trích cẩm (trích những lời gấm thêu về sử và văn) và Hoa trình ngẫu bút lục (Ghi lại những bài phóng bút trong chuyến sứ trình) cũng có chép một số thơ đi sứ của cụ. Tập Hồng Hà phu nhân di văn chép những bài xướng họa, thơ văn của cụ Nguyễn Kiều và cụ Đoàn Thị Điểm mới được phát hiện gần đây, như bài Đi thuyền trong đêm mưa, có người đã dịch:
Sông đêm yên sóng biếc êm đềm,
Mưa nặng nhẹ rơi, dào dạt thuyền.
Mưa nhỏ nát tình quê muôn dặm,
Khua tàn mộng khách lúc trăng đêm.
Tiếng tù rét thấm vang lầu vọng,
Khí lạnh suối tuôn tràn gối chăn.
Đêm rạng dậy xem bờ liễu rũ,
Núi xanh, cây ngọc tắm mưa lành.
Đủ biết tâm hồn lãng mạn hiện thực của cụ toát lên tinh thần yêu nước, gắn bó với thiên nhiên như thế nào. Đúng như có nhà nghiên cứu đã khẳng định: “Thơ Nguyễn Kiều là loại thơ hay, có phong cách. Có những bài, những câu diễm lệ, ý tứ mới mẻ, giọng thơ tao nhã, tươi đẹp. Tất cả thường được thể hiện với niềm xúc động chân tình.Tài thi ca của Nguyễn Kiều còn đứng trên cả Nguyễn Tông Khuê (Phó Sứ), một người được thi nhân Trung Quốc, Triều Tiên sánh với Lý Bạch”.
Về đời tư của Nguyễn Kiều cũng khá nhiều đa đoan, trắc trở.CụNguyễn Kiều lấy người vợ đầu là cụ Lê Thị Hằng, con gái của quan Thượng thư Lê Anh Tuấn, dưỡng phụ của cụ Đoàn Thị Điểm; người làng Thanh Mai, Thượng Mai. Cụ Hằng mất sớm và không có con. Người vợ kế là cụ Đoan, con gái của quan đại thần Nguyễn Quí Đức, người làng Tây Mỗ, Thượng Mỗ. Cụ Đoan sinh được 2 con trai và 1 con gái, và qua đời lúc chưa tới 30 tuổi.
Người vợ thứ ba của cụ chính là Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Tiếc rằng mối nhân duyên chưa được bao lâu, khi cụ ông đưa cụ bà vào Nghệ An nhậm chức. Sau khi vào lễ đền Sòng, cụ bà đã ốm nặng và mất vào ngày 11- 9 âm lịch (1749), hưởng thọ 44 tuổi. Cụ Nguyễn Kiều thương xót vợ vô cùng; nhưng vì vừa nhậm chức nên buộc lòng cụ phải làm lễ thành phục, rồi giữ quan tài một tháng ở trấn sở. Hàng ngày buổi sáng, buổi chiều đều sắp cơm cúng tế, rồi chọn ngày sai người đưa thi hài cụ bà về mai táng tại quê hương Phú Xá. Cụ bận việc quan, không về cùng đám tang, chỉ lập đàn trên bến, đọc bài văn tế, có đoạn rất thống thiết:
Xưa được nghe tiếng Nàng, - Bèn kết thân hai họ.
Nàng về nhà tôi, - Vẹn toàn đạo vợ.
Việc bút nghiên tài lạ hằng chuyên; - Nghề kim chỉ tay sành chẳng bỏ.
Thường thường đàm luận cổ thi, - Ngày ngày xướng thơ họa phú.
Ba năm đi sứ Bắc, mày liễu buồn chau; - Năm ngựa trở về nhà, mặt hoa cười nở.
Lúc rảnh việc cùng vui thú văn hàn; - Mới có chỉ sai trở vào xứ Nghệ.
Non sông chẳng ngại đường dài, - Tần tảo quyết theo nội trợ.
Đường sông nghìn dậm gian nan, - Doanh liễu, ba tuần tới đó.
Một bệnh càng thêm, - Trăm phương khôn chữa.
Đào chưa quả, đã vội khô. - Quế đang thơm đã rũ !
Rừng sâu, bể rộng. Nàng hỡi đi đâu ? - Ngọc nát châu chìm, lòng tôi quặn nhớ.
Mấy năm sau, cụ Nguyễn Kiều về quê nghỉ hưu, cùng dân làng dựng xây ngôi đình Tụy Lạc xong thì mất tại quê hương năm 1752, được an táng tại cánh đồng Nhật Tân, phường Phú Thượng, quận Tây Hồ (Hà Nội). Một người làm đến chức Hình bộ Tả Thị lang, tước Hầu nhưng khi qua đời mộ ông cũng bình dị không khác một người dân thường.
Năm 1977, giáo sư, viện sĩ Phạm Huy Thông cùng các nhà khảo cổ học: Đỗ Văn Ninh, Trịnh Cao Tưởng, Nguyễn Đình Truật đã về nghiên cứu ngôi mộ cụ Nguyễn Kiều. Ngày 24-7 đến 27-7-2014, được sự cho phép của Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch Hà Nội, Hội Khảo cổ học Việt Nam phối hợp với Ban quản lý di tích và danh thắng Hà Nội GS Nguyễn Lân Cường và phái đoàn Viện Khảo cổ đã tiến hành khai quật mộ cụ Nguyễn Kiều.
Ngày 29-7-2014, diễn ra lễ hợp táng hai ngôi mộ bên nhau; được long trọng tổ chức tại thôn Phú Xá, phường Phú Thượng quận Tây Hồ, để đưa mộ cụ Nguyễn Kiều về bên cạnh mộ cụ Đoàn Thị Điểm. Như vậy, sau 260 năm sau ngày mất hai danh nhân văn học nước ta đã về cạnh bên nhau.
Dân làng và thế hệ cháu chắt nguyện suốt đời noi gương, tưởng nhớ các cụ, phấn đấu hết mình góp phần xây dựng cuộc sống văn minh, gia đình hạnh phúc.
------------------------
Ghi chú:Bài viết có tham khảo tư liệu của nhiều tác giả như: TS Phạm Trọng Chánh, Nguyễn Quang Hà,...