Ứng dụng công nghệ quản lý thuế 4.0

Chính sách thuế được thiết kế để đáp ứng các điều kiện kinh tế xã hội của từng quốc gia. Tuy nhiên trong môi trường kinh doanh toàn cầu và thay đổi không ngừng của công nghệ, các quốc gia cần cân nhắc kỹ lưỡng những công nghệ khi xây dựng và hoàn thiện chính sách quản lý thuế.

Về cơ bản có 3 sắc thuế khác nhau, đó là thuế đánh trên thu nhập/lợi tức, đánh thuế trên các giao dịch và đánh thuế vào tài sản. Và để giám sát trong thời đại 4.0 phải ứng dụng kỹ thuật số để nâng cao hiệu quả thu thuế của từng loại hình thuế.

Ứng dụng kỹ thuật số tránh thất thoát

Đối với thuế đánh trên thu nhập/lợi tức, hiệu quả thu thuế của ứng dụng kỹ thuật số là tự động tính toán dồn tích làm tròn số. Trên thực tế, khi thu nhập và lợi tức được tính bằng cách cộng dồn các giao dịch trong một khoảng thời gian xác định. Mô hình hiện tại người nộp thuế đưa các số liệu đầu vào liên quan, phân tích và điều chỉnh, sau đó chuyển gói thông tin kê khai thuế tới cơ quan thuế.

Tốc độ thay đổi công nghệ trên thế giới đang gia tăng, mặc dù sự thay đổi này có thể không phân bố đồng đều, và sẽ có những thói quen khó thay đổi. Do vậy sự thay đổi cách làm việc và tiêu dùng mà các thế hệ con người đang và sẽ sử dụng phải thay đổi cơ bản.

Nếu áp dụng công nghệ, cơ quan quản lý thuế có lợi thế thu thuế thông qua cách sử dụng định dạng gói thông tin kê khai thuế, và bắt buộc người nộp thuế sử dụng các giải pháp như gắn nhãn ngôn ngữ lập báo cáo doanh nghiệp eXtensible (eXtensible Business Reporting Language XBRL), để từ đó thu thập được nhiều dữ liệu và phân tích tự động các tờ khai thuế có rủi ro cao đưa vào diện kiểm tra.

Đối với các loại thuế đánh trên các giao dịch như thuế giá trị gia tăng (GTGT), các loại thuế hàng hóa và dịch vụ, lợi thế nâng cao hiệu quả thu thuế của ứng dụng kỹ thuật số lớn hơn nhiều. Hiện nay, nhiều quốc gia yêu cầu các doanh nghiệp (DN), cửa hàng bán lẻ sử dụng loại máy tính tiền cà thẻ (POS) lưu giữ bộ nhớ giao dịch đã thực hiện, và chỉ cơ quan thuế có mã truy cập được gọi là fiscal tills (tránh người nộp thuế tự điều chỉnh giảm doanh thu bán hàng).

Song với các tiến bộ công nghệ, những dữ liệu doanh thu bán hàng này có thể truyền tải thẳng tới hệ thống thông tin của cơ quan quản lý thuế. Cơ sở hạ tầng công nghệ sẽ cho phép cập nhật liên tục dữ liệu doanh thu vào hệ thống cơ quan thuế, do đó giảm thiểu quy mô sai sót và gian lận thuế. Trong tương lai, công nghệ sẽ cho phép chuyển thẳng thuế GTGT vào hệ thống cơ quan thuế khi xảy ra giao dịch bán hàng, không cần đến DN hay người bán hàng nộp tờ khai hay nộp thuế cho cơ quan thuế.

Đằng sau khái niệm đơn giản “kê khai thuế qua mạng” là rất nhiều tiếp cận ứng dụng công nghệ, bởi không chỉ áp dụng thu thuế hiện tại mà còn hướng tới sự phát triển trong tương lai đối với các loại hình dịch vụ, và các hoạt động sản xuất kinh doanh ở quy mô rộng hơn của người nộp thuế.

Trước đây, Trung Quốc và EU đều bị thiệt hại nặng nề do gian lận hoàn thuế GTGT của các DN “ma” và DN bỏ trốn. Thí dụ, DN nộp hồ sơ hoàn thuế lớn từ giao dịch với một DN khác đăng ký thuế ở một tỉnh rất xa (Trung Quốc) hoặc ở nước khác (EU), muốn xác minh sẽ rất khó do ở Trung Quốc phải mất 6 tuần cơ quan thuế ở tỉnh khác mới có thể xác nhận về việc DN đó có tồn tại và phát sinh giao dịch thật hay không.

Và thế là rất nhiều DN nhận được tiền hoàn thuế GTGT và nhanh chóng đóng cửa, bỏ trốn. Chỉ khi Trung Quốc sử dụng chương trình “hệ thống thuế vàng” ứng dụng công nghệ thông tin mới kiểm tra và xác thực khoản hoàn thuế trong thời hạn xét hồ sơ phù hợp trước khi ra quyết định hoàn thuế. Tương tự, khi EU đưa vào sử dụng hệ thống trao đổi thông tin GTGT EU, các DN EU có thể tra cứu xác thực mã số thuế và số thuế GTGT phải nộp.

Để tránh thất thu thuế trong thời đại 4.0, ngành thuế phải ứng dụng công nghệ kỹ thuật số,nhằm đem lại trải nghiệm tốt cho người nộp thuế cũng như củng cố năng lực người quản lý thuế. Ảnh: VIẾT CHUNG

Để tránh thất thu thuế trong thời đại 4.0, ngành thuế phải ứng dụng công nghệ kỹ thuật số,nhằm đem lại trải nghiệm tốt cho người nộp thuế cũng như củng cố năng lực người quản lý thuế. Ảnh: VIẾT CHUNG

Đối với thuế đánh vào tài sản, hiệu quả thu thuế của ứng dụng kỹ thuật số không quá lớn. Cụ thể, khi các thông tin đăng ký đất đai được lưu trữ trực tuyến, việc phối hợp giữa các cơ quan công quyền cho phép thu thuế kịp thời hơn.

Nhưng nếu các giao dịch đất đai và bất động sản (BĐS) có thể sử dụng ứng dụng công nghệ sổ cái phi tập trung (blockchain), các cơ quan công quyền đều có quyền truy cập được vào hợp đồng giao dịch đất đai, BĐS trên mạng. Như vậy sẽ đơn giản hóa thủ tục hành chính đăng ký đất đai, BĐS và giảm nguy cơ sai sót hoặc trì hoãn đóng thuế trước bạ và các loại thuế phát sinh khác. Chẳng hạn cơ quan quản lý thuế ở Anh đã tạo ra hồ sơ cho mỗi người nộp thuế. Bộ phận rà soát và phân tích dữ liệu có thể xác định được hồ sơ nào cần xác minh, kiểm tra và thanh tra. Hệ thống hình ảnh dữ liệu địa chính trên mạng cũng cho phép đối chiếu với tờ khai thuế tài sản giúp cơ quan quản lý thuế phát hiện kê khai thiếu thuế đánh trên tài sản.

Kinh nghiệm quốc tế

Nhiều nước trên thế giới, dù ở mức độ phát triển khác nhau, hiện nay đều thực hiện kê khai thuế qua mạng. Thuế thu nhập DN thường là đối tượng đầu tiên áp dụng kê khai trực tuyến. Ngoài ra, các cá nhân đang áp dụng các giải pháp công nghệ khi làm việc thường nhật cũng sẵn sàng kê khai thuế qua mạng.

Rwanda, nước thu nhập thấp duy nhất trong nhóm 50 nước có chỉ số Kinh doanh thuận lợi 2019 (Doing Business Index) của Ngân hàng Thế giới (năm 2019 Rwanda đạt thứ hạng 29, Việt Nam đạt thứ hạng 69). Năm 2013, do những yếu kém trong hệ thống thuế GTGT (từ phát hiện của kiểm toán có quá nhiều các sai phạm lập khống hóa đơn, kê giảm doanh thu, hoàn thuế GTGT cho DN bỏ trốn), chính phủ nước này đã bắt buộc các DN thương mại sử dụng máy tính tiền điện tử.

Đến năm 2015, số thu thuế GTGT tăng 20%, cơ quan thuế tăng cường truy tố các vụ hoàn thuế cho DN bỏ trốn. Đến năm 2018, cơ quan thuế ước tính việc bắt buộc sử dụng máy tính tiền điện tử đã giúp giảm số giờ tuân thủ thuế GTGT trong 1 năm từ 45 giờ xuống còn 5 giờ, đồng thời công bố sẽ cung cấp ứng dụng phần mềm miễn phí sử dụng công nghệ mới có thể cài đặt vào điện thoại thông minh (smart phone) và máy tính của DN thương mại.

Tại Mỹ, cơ quan quản lý thuế vùng Ascension Parish, bang Louisiana, đã quyết định đầu tư vào công nghệ định vị trên không để có được các hình ảnh chi tiết của các BĐS trong vùng. Năm 2014, cơ quan thuế vùng có thể kết hợp dữ liệu từ hình ảnh định vị trên không này với các hồ sơ, tờ khai thuế BĐS để xác định các trường hợp cần kiểm tra, khảo sát thực địa. Kết quả là trong năm 2014, cơ quan này phát hiện ra hơn 6.000 trường hợp có thay đổi về BĐS mà không khai thuế, thu được thêm 18,1 triệu USD tiền thuế.

Bên cạnh đó, kinh nghiệm cơ quan thuế vùng Anne Arundel, bang Maryland (Mỹ) áp dụng chương trình thí điểm kết hợp giữa các hình ảnh trên không và dữ liệu thuế BĐS để rà soát, điều tra 10.435 hộ gia đình, tăng gấp đôi số hộ gia đình họ có thể rà soát, điều tra vào năm trước đó. Các BĐS phát hiện chưa kê khai thuế lên tới 17% tổng số mặt bằng, do đó góp phần tăng cơ sở tính thuế BĐS tại vùng lên 32 triệu USD. Cơ quan thuế bang dự đoán nếu sử dụng công nghệ này ở tất cả các vùng sẽ mở rộng cơ sở tính thuế của bang 1,4 tỷ USD.

Chúng ta đã nghe về nền kinh tế chia sẻ, về công nghệ in 3D sẽ thay đổi các ngành sản xuất và tiêu dùng các hàng hóa vật chất. Đặc tính thay đổi to lớn có thể chưa rõ ràng, nhưng có một điều chắc chắn là các nền kinh tế mỗi quốc gia và toàn cầu trong tương lai sẽ rất khác biệt so với những gì trong quá khứ. Và đây sẽ là cơ hội tích hợp hệ thống quản lý thuế đem lại trải nghiệm tốt hơn cho người nộp thuế, cũng như củng cố năng lực đội ngũ những người quản lý thuế.

BELINDA YOUNG, Thành viên Diễn đàn Thuế toàn cầu (ACCA), Tổng Giám đốc Tập đoàn Centrecourt Singapore.

LƯU THỦY (ghi)

Nguồn SGĐT: http://saigondautu.com.vn/doanh-nghiep-doanh-nhan/ung-dung-cong-nghe-quan-ly-thue-40-68591.html