Tỷ lệ nội địa hóa xe ô tô quá thấp

TGTTO Đây là con số được ông Lương Đức Toàn - Phó trưởng Phòng Công nghiệp chế biến, chế tạo - Cục Công Nghiệp (Bộ Công Thương) - cho biết tại hội thảo 'Phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) ngành ô tô: Tác động chính sách, các rào cản và giải pháp' do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức hôm nay (30/10), tại Hà Nội.

Nhiều sản phẩm phụ tùng linh kiện trong nước sản xuất ở mức độ đơn giản, với hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng thấp

Ông Lương Đức Toàn cho hay: Trong thời gian qua, CNHT ngành sản xuất, lắp ráp ô tô ở Việt Nam gồm cả doanh nghiệp (DN) FDI và DN nội địa đã được được những thành tựu nhất định. Đến nay đã có 358 DN sản xuất liên quan đến ô tô, trong đó có 50 DN lắp ráp ô tô, 45 DN sản xuất khung gầm, thân xe và thùng xe, 214 DN sản xuất linh kiện phụ tùng ô tô… số lượng trên thấp hơn rất nhiều so với 385 DN ở Malaysia và 2500 DN ở Thái Lan về sản xuất linh kiện phụ tùng ô tô.

Tuy nhiên, CNHT ngành sản xuất, lắp ráp ô tô ở Việt Nam mới chỉ sản xuất được một số nhóm linh kiện, phụ tùng như chi tiết cấu thành khung gầm xe, thùng xe, vỏ cabin, cửa xe, săm lốp, bộ tản nhiệt, dây phanh, dây dẫn điện, trục dẫn, vành bánh xe, nhíp lò xo, ống xả, ruột két nước, hộp số, vô lăng, van điều khiển trong hộp số tự động, điều khí trong động cơ, sơmi xi-lanh, ghế ngồi, bàn đạp chân ga, chân phanh, ăng ten cho radio trong xe, một số sản phẩm đúc kim, một số chi tiết composite… Cạnh đó, hiện đầu tư cho sản xuất linh kiện, phụ tùng ô tô còn mang tính nhỏ lẻ, sản phẩm làm ra ít cả về chủng loại và sản lượng. Sức cạnh tranh quốc tế của CNHT ngành sản xuất, lắp ráp ô tô còn hạn chế, nhất là sản phẩm của DN nội địa.

Cũng theo ông Lương Đức Toàn, đối với các chủng loại xe tải, xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng sản xuất trong nước đã đạt tỷ lệ nội địa hóa cao, đáp ứng về cơ bản cụ thể, xe tải 7 tấn đã đáp ứng khoảng 70% nhu cầu với tỷ lệ nội địa hóa trung bình 55%; xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, một số loại xe chuyên dụng đáp ứng khoảng 90% nhu cầu tỷ lệ nội địa hóa đạt từ 45-55%. Một số phụ tùng linh kiện đã xuất khẩu sang thị trường Lào, Campuchia, Myanmar, Trung Mỹ.

Đáng chú ý, tỷ lệ nội địa hóa đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi đạt thấp, đến nay mới đạt bình quân khoảng 7-10%, trong đó Thaco đạt 15-18%, Toyota Việt Nam đạt 37% đối với riêng dòng xe Innova, thấp hơn mục tiêu đề ra. Phần lớn phụ tùng và linh kiện đều phải nhập khẩu. Theo đó, năm 2014 nhập khẩu 2,2 tỷ USD; năm 2015 nhập khẩu 3 tỷ USD, năm 2016 nhập khẩu 3,5 tỷ USD và năm 2017 nhập khẩu 3,167 tỷ USD. Trong khi đó, tỷ lệ mua phụ tùng trong nước tùy theo chủng loại xe và nhà sản xuất đạt 10-30% đối với xe du lịch; hơn 30% đối vơi xe tải và hơn 40% đối với xe buýt.

Phụ tùng, linh kiện chủ yếu được sản xuất và nhập khẩu từ DN FDI, tỷ lệ đặt hàng phụ tùng linh kiện từ DN nội địa cung cấp rất thấp. Trong số các DN cung cấp hiện có, hơn 90% là DN FDI, chỉ có số ít DN trong nước có thể tham gia vào mạng lưới của DN cung cấp cho các DN sản xuất lắp ráp ô tô ở Việt Nam.

Nhìn chung nhiều loại sản phẩm phụ tùng linh kiện ở mức độ đơn giản, với hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng thấp. Do đó, tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm ô tô, sản xuất, lắp ráp trong nước vẫn rất thấp, chưa đáp ứng được mục tiêu mong muốn về tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm ô tô ở Việt Nam.

Nguyên nhân của tình trạng trên là do dung lượng thị trường nội địa hạn chế. Thị trường nhỏ, bị phân tán bởi nhiều nhà lắp ráp và nhiều loại model khác nhau khiến cho các công ty kể cả sản xuất, lắp ráp ô tô và sản xuất linh kiện phụ tùng nên rất khó đầu tư, phát triển sản xuất hàng loại, các DN CNHT chưa đủ khả năng tiếp cạn các chuỗi sản xuất ô tô ở nước ngoài. Cạnh đó, chưa tạo được sự hợp tác – liên kết và chuyên môn hóa giữa các DN trong sản xuất – lắp ráp ô tô và sản xuất phụ tùng linh kiện. Năng lực sản xuất của các DN trong nước còn thấp…

TS. Nguyễn Thị Tuệ Anh- Phó Viện trưởng CIEM – khẳng định: Công nghiệp ô tô phát triển sẽ tạo ra thị trường cho CNHT phát triển và ngược lại phát triển CNHT là điều kiện không thể thiếu để phát triển ngành công nghiệp ô tô trong nước. Các DN Việt Nam hiện đã sản xuất được một số linh kiện, phụ tùng cho ô tô nhưng với hàm lượng công nghệ với giá trị không cao.

Để thúc đẩy phát triển CNHT ngành ô tô phát triển, rất cần tới các nghiên cứu chính sách liên quan đến ngành công nghiệp ô tô, CNHT ngành ô tô, tìm ra giải pháp thúc đẩy ngành này.

Ông Lương Đức Toàn nhấn mạnh: Để thúc đẩy phát triển CNHT ngành ô tô, cần nâng cao năng lực DN CNHT ngành ô tô đáp ứng yêu cầu của các chuỗi sản xuất toàn cầu. Bên cạnh đó, cần hỗ trợ các DN tiếp cận tín dụng, tiếp cận vốn vay và gói tín dụng cho CNHT. Hình thành các Trung tâm Hỗ trợ phát triển công nghiệp. Phát triển các ngành công nghiệp hạ nguồn. Thu hút đầu tư sản xuất sản phẩm CNHT, đặc biệt là thu hút đầu tư từ các tập đoàn sản xuất linh kiện hàng đầu thế giới.

LÊ HẬU

Nguồn TGTT: http://thegioitiepthi.vn/p/ty-le-noi-dia-hoa-xe-o-to-qua-thap-16584.html