Trọn đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng

Với 99 năm tuổi đời, 80 năm tuổi Đảng, Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Ông là một nhà quân sự tài năng, một nhà chính trị mẫn cảm, đã tham gia vào các sự kiện quan trọng của cách mạng và đất nước.

NHÀ QUÂN SỰ TÀI BA

Cuộc đời binh nghiệp của Đại tướng Lê Đức Anh gắn với các chiến trường từ Bắc vào Nam với 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, 11 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ, 7 năm chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam cùng quân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng và tái thiết đất nước. Trên cương vị Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, rồi Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh miền Nam, Tư lệnh Quân khu 9, Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh miền Nam, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, ông đã tham gia nhiều sự kiện quan trọng, trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch lớn. Đặc biệt ông là người góp công lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc, giải phóng miền Nam vào những ngày Tháng 4 năm 1975 lịch sử.

Theo PGS-TS Hà Minh Hồng, nguyên Trưởng khoa lịch sử, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh, trong 5 cánh quân tiến vào Sài Gòn những ngày cuối tháng 4/1975, cánh quân hướng Tây - Tây Nam do Trung tướng Lê Đức Anh - Phó Tư lệnh chiến dịch - chỉ huy (thời điểm này ông mang hàm Trung tướng) đã đáp ứng được đầy đủ, kịp thời nhiệm vụ của chiến dịch khi sớm làm chủ chiến trường, kìm giữ chân địch, tạo điều kiện cho các cánh quân sớm hoàn thành nhiệm vụ. Tài chỉ huy của Trung tướng Lê Đức Anh cũng được thể hiện rõ qua cách sử dụng con đường bạo lực cách mạng, sử dụng lực lượng vũ trang địa phương, huy động lực lượng của nhân dân tham gia cuộc chiến. Ông cũng đã tận dụng được sự giúp đỡ của nhân dân để vượt sông, giữ cầu, đánh chiếm cắt đường…

Bên cạnh đó, theo tiến sĩ Nguyễn Việt Hùng, Trưởng khoa Xây dựng Đảng và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Cán bộ TP Hồ Chí Minh, sức mạnh chính trị của nhân dân và đặc biệt uy danh của người đứng đầu cánh quân Tây - Tây Nam cũng khiến quân địch khiếp sợ. “Sức mạnh quân sự của chúng ta với sự hỗ trợ sức mạnh chính trị của đồng bào cũng cảm hóa cả đối phương khi phần lớn các đơn vị đối phương phòng thủ ở hướng Tây - Tây Nam án binh bất động hoặc đầu hàng rã ngũ. Có nơi còn hợp tác với quân giải phóng để nhanh chóng kết thúc sớm chiến tranh. Có thể nói chính nghĩa của chúng ta gắn với tên tuổi của nhà quân sự lừng danh Lê Đức Anh làm địch khiếp sợ”, tiến sĩ Nguyễn Việt Hùng nhấn mạnh.

Dấu ấn quân sự và tài thao lược của Trung tướng Lê Đức Anh đối với cánh quân phía Tây - Tây Nam rất rõ, đó là kinh nghiệm trận mạc của ông ở chiến trường Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ những năm 1969-1970, đặc biệt là sau Hiệp định Paris và đến cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân năm 1975.

NHÀ LÃNH ĐẠO XUẤT SẮC

Không chỉ có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, Đại tướng Lê Đức Anh còn có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển đất nước và mở rộng quan hệ ngoại giao của Việt Nam. Ông đã góp phần đưa công cuộc đổi mới đi vào hiện thực, tạo tiền đề cho sự thành công của công cuộc đổi mới những năm tiếp theo. Ông cũng là người đề nghị việc phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.

Đặc biệt, dấu ấn nổi bật của ông phải kể đến là những đóng góp trong lĩnh vực ngoại giao. Thực hiện đường lối đổi mới, năm 1986, Việt Nam tiến hành bình thường hóa quan hệ với một số nước, trong đó có 2 nước lớn là Trung Quốc và Hoa Kỳ. Trong bối cảnh đó, ông đã được tin tưởng giao trọng trách “mở đường”.

Cuối tháng 7/1991, với tư cách là phái viên của Bộ Chính trị, Đại tướng Lê Đức Anh sang thăm Trung Quốc để trao đổi những vấn đề cụ thể việc bình thường hóa quan hệ 2 nước. Sau chuyến đi này là chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt dẫn đầu, theo lời mời của Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng. Đây là mốc đánh dấu chính thức bình thường hóa và mở ra một trang sử mới trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc.

Ông cũng chính là người “mở đường” cho hành trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ. Thời điểm ấy, giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chưa có một kênh tiếp cận chính thức nào. Đại tướng đã tìm ra những bước đi khôn khéo với chiến dịch “Phẫu thuật nụ cười” và “Tìm kiếm người Mỹ mất tích - MIA” - mở ra một cách tiếp cận trong việc bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ. Những hoạt động này đã góp phần quan trọng trong việc bình thường hóa quan hệ giữa 2 nước vào năm 1995.

Đánh giá về Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã viết: “Ngần ấy thời gian biết về anh Sáu Nam - Lê Đức Anh, có lúc cùng chiến trường, có lúc ở cấp lãnh đạo Nhà nước, anh là một cán bộ tham mưu tầm cỡ, một vị tướng chỉ huy cương nghị, bản lĩnh và dám chịu trách nhiệm. Một Bộ trưởng Quốc phòng trong thời bình xây dựng có nhiều đổi mới trong tổ chức và bố trí lực lượng quân đội, lực lượng vũ trang nhân dân; một trong những nhà lãnh đạo quốc gia tầm cỡ trong thời kỳ đổi mới đất nước... Công bằng mà đánh giá, cũng không có nhiều tướng lĩnh như anh Lê Đức Anh”.

Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi, phong phú, với bao khó khăn, thử thách, Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh luôn hoàn thành xuất sắc trọng trách trước Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân giao phó; đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đúng như cố Tổng Bí thư Đỗ Mười đã khẳng định, Đại tướng Lê Đức Anh “là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta”.

MAI TRANG

Nguồn Bà Rịa - Vũng Tàu: http://www.baobariavungtau.com.vn/chinh-tri/202011/ky-niem-100-nam-ngay-sinh-dai-tuong-le-duc-anh-1121920-1122020-tron-doi-cong-hien-cho-su-nghiep-cach-mang-914748/