Trình Quốc hội dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Chiều ngày 19/11, thực hiện Chương trình Kỳ họp thứ 8 Quốc hội Khóa XIV, Quốc hội nghe Tờ trình dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu điều hành nội dung làm việc.

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình trình bày Tờ trình

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình trình bày Tờ trình

Trình bày Tờ trình, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình cho biết, việc xây dựng Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án nhằm đạt được các mục đích cơ bản sau: Xây dựng cơ chế pháp lý mới hiệu quả về hòa giải, đối thoại tại Tòa án để cơ quan, tổ chức, cá nhân lựa chọn giải quyết tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính; Thu hút, huy động nguồn nhân lực có kiến thức và kinh nghiệm trong xã hội tham gia phối hợp cùng Tòa án tiến hành hòa giải, đối thoại để giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính; Nâng cao chất lượng giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính; tăng tỷ lệ hòa giải thành, đối thoại thành và hiệu quả thi hành kết quả hòa giải, đối thoại.

Quan điểm xây dựng dự Luật nhằm thể chế hóa các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, cải cách hành chính; theo đó, phải bảo đảm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý, tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên, khuyến khích việc giải quyết các tranh chấp thông qua hòa giải, đối thoại; không làm tăng bộ máy, tổ chức, biên chế của Tòa án; thu hút, huy động nguồn nhân lực chất lượng cao trong xã hội tham gia giải quyết tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính. Các nội dung của dự án Luật phải được xây dựng trên cơ sở đánh giá thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về hòa giải, đối thoại hiện hành, khắc phục được những hạn chế, vướng mắc, bất cập; kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa, pháp lý tốt đẹp của dân tộc; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới về hòa giải. Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp; tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật về hòa giải, đối thoại, tính khả thi của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, không mâu thuẫn, không thay thế các cơ chế pháp lý hiện có.

Về phạm vi điều chỉnh của Luật, Luật này quy định phạm vi, nguyên tắc, chính sách của Nhà nước về hòa giải, đối thoại tại Tòa án; quyền, nghĩa vụ của Hòa giải viên, các bên tham gia hòa giải, đối thoại; trách nhiệm của Tòa án đối với công tác hòa giải, đối thoại; trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại; công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án. Luật này không điều chỉnh các hoạt động hòa giải, đối thoại đã được luật khác quy định. Hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật này được thực hiện trước khi Tòa án thụ lý đơn khởi kiện vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, đơn khởi kiện vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính. Quy định theo hướng trên phù hợp với mục tiêu xây dựng cơ chế pháp lý mới để cá nhân, cơ quan, tổ chức lựa chọn giải quyết các tranh chấp, bất đồng thông qua hòa giải, đối thoại, giảm số lượng tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính mà Tòa án phải thụ lý, xét xử; đồng thời, phù hợp với điều kiện về cơ sở vật chất hiện hành, số lượng Hòa giải viên; không chồng chéo, mâu thuẫn với các cơ chế hòa giải, đối thoại hiện có.

Toàn cảnh Phiên họp

Về các nguyên tắc của hòa giải, đối thoại, dự thảo Luật quy định việc hòa giải, đối thoại tại Tòa án phải tuân thủ các nguyên tắc: Các bên tự nguyện tham gia hòa giải, đối thoại; tự nguyện thỏa thuận, thống nhất phương án hòa giải, đối thoại; bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ; Nội dung thỏa thuận hòa giải, đối thoại không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ, không xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; Các thông tin liên quan đến vụ việc hòa giải, đối thoại phải được giữ bí mật theo quy định của Luật này; Phương thức hòa giải, đối thoại được tiến hành linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế, đặc điểm của mỗi loại vụ việc; Bảo đảm bình đẳng giới, bảo vệ quyền của trẻ em trong tổ chức và hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án; Tiếng nói và chữ viết dùng trong hòa giải, đối thoại là tiếng Việt. Người tham gia hòa giải, đối thoại có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình; trường hợp này họ có thể tự bố trí hoặc yêu cầu Hòa giải viên bố trí phiên dịch cho mình và tự chịu chi phí phiên dịch. Người tham gia hòa giải, đối thoại là người khuyết tật nghe, khuyết tật nói hoặc khuyết tật nhìn có quyền dùng ngôn ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng cho người khuyết tật; trường hợp này phải có người biết ngôn ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng cho người khuyết tật để dịch lại.

Về trách nhiệm của Tòa án nơi tiến hành hòa giải, đối thoại, đối với hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án, Tòa án nơi tiến hành hòa giải, đối thoại có trách nhiệm: Tổ chức thực hiện hòa giải vụ việc dân sự, đối thoại khiếu kiện hành chính; Quản lý, hỗ trợ, hướng dẫn Hòa giải viên thực hiện hòa giải, đối thoại; Bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đề xuất khen thưởng, kỷ luật đối với Hòa giải viên; Bố trí địa điểm, trang thiết bị, điều kiện đảm bảo cho công tác hòa giải, đối thoại; Công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành; Báo cáo về công tác hòa giải, đối thoại theo quy định của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Lưu trữ hồ sơ, kết quả hòa giải, đối thoại; Phân công Thẩm phán làm công tác hòa giải, đối thoại theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao; Xem xét, thụ lý vụ việc ngay sau khi hòa giải không thành, đối thoại không thành theo quy định của pháp luật tố tụng; Thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của Luật này và luật khác có liên quan.

Về thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình nêu rõ, Tòa án nhân dân tối cao nhận thấy chế định hòa giải, đối thoại tại Tòa án theo Luật này có tính chất đặc thù vì được thực hiện bởi các Hòa giải viên do Tòa án lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm; quá trình hòa giải, đối thoại có sự giám sát, hỗ trợ về nghiệp vụ từ phía Tòa án/Thẩm phán; kết quả hòa giải, đối thoại được Thẩm phán xác nhận. Do đó, việc quy định thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành như tại Điều 25 dự thảo Luật là cần thiết và hợp lý. Đối với việc công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án (hòa giải theo Luật Hòa giải ở cơ sở, hòa giải thương mại) thì tiếp tục thực hiện theo quy định tại Chương XXXIII của Bộ luật Tố tụng Dân sự hiện hành. Quá trình triển khai thi hành Luật sẽ từng bước đánh giá hiệu quả, kết hợp với việc tổng kết thực tiễn thi hành quy định tại Chương XXXIII của Bộ luật Tố tụng dân sự để báo cáo Quốc hội./.

Hồ Hương- Nghĩa Đức

Nguồn Quốc Hội: http://quochoi.vn/tintuc/pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?itemid=42979